Những Cô Em Gái

27.09.2014
Admin

Truyện: Những Cô Em Gái

Tác giả: Nguyễn Nhật Ánh
Tình trạng: Hoàn thành.
Post bởi: HaySo1.Vn

**********************

Những Cô Em Gái là phần tiếp theo của truyện Hoa Hồng Xứ Khác. Truyện này nội dung lãng mạn và có nhiều vần thơ hay. Muốn biết cuộc phiêu lưu tình cảm mới của anh chàng Khoa ra sao và kết quả có tốt đẹp hơn mối tình đầu tiên của anh chàng hay không thì mời các bạn hãy cùng đón đọc truyện này.

*****

Chương 1:

Năm lớp mười hai của tôi là một năm vô cùng buồn tẻ.
Bạn bè cũ tản mác đứa một phương. Thằng Nghị, “giáo sư” Bá và nhỏ Hồng chà- và xấu người đẹp nết tiếp tục học lớp mười hai tại trường tỉnh lỵ. Ngữ và Hòa lé rớt tú tài một năm đó, buồn tình khăn gói vào phương Nam lập nghiệp. Tôi và Gia Khanh ra Đà Nẵng.
Gia Khanh học khác trường với tôi, nó học trường con gái tôi học trường con trai. Nhưng dù nó có học chung với tôi, hai đứa cũng chả còn gì để nói. Từ khi phát hiện Gia Khanh có người yêu ngoài quê, sao chổi Halley trong lòng tôi đã tắt.
Không bà con thân thích, chẳng bạn bè quen, tôi lọt thỏm giữa thành phố lớn như lạc vào một hành tinh xa lạ, buồn ơi là buồn.
Ba tôi gửi tôi ở nhờ nhà một người bạn quen tên Đán. Gọi là “nhà”, thực ra đó chỉ là một căn phòng nhỏ xíu ngay trong cơ quan bác Đán làm việc.
Gọi căn phòng thực ra cũng là gọi cho oai. Đó chỉ là một khoảnh diện tích nhỏ ngăn bớt của phòng làm việc để làm chỗ ngủ. Phòng chỉ đủ chỗ kê một cái tủ, một cái bàn, một chiếc giường con. Từ khi tôi xuất hiện, căn phòng có thêm một chiếc ghế bố.
Đêm đầu tiên, nằm trong mùng nghe muỗi bay vo ve bên ngoài, tôi nhớ nhà đến ứa nước mắt. Tôi nhớ ba mẹ, nhớ các em tôi, nhớ đám bạn bè cũ ghê gớm.
Bác Đán nằm trên chiếc giường con bên cạnh nghe tôi trằn trọc, gióng tiếng hỏi:
– Gì vậy con?
– Dạ, không có gì ạ.
– Muỗi nhiều con hả?
– Dạ không ạ.
– Hay rệp đốt?
– Dạ không.
Bác Đán không nghĩ tôi nhớ nhà. Con trai lớp mười hai chuẩn bị vào đại học lẽ đâu lại giống đứa con nít lên năm.
– Chắc con lạ chỗ nên khó ngủ!
Bác Đán chép miệng nói, rồi hạ giọng vỗ về:
– Ráng ngủ đi con. Ngày đầu bác cũng y như con vậy.
Tôi đi học xa nhà lần này không phải là lần đầu. Lên lớp mười, tôi đã khăn gói vô Tam Kỳ, sống xa ba mẹ tôi, xa các em tôi, xa con suối trong vắt chảy qua làng, xa ngõ tre bốn mùa râm mát.
Nhưng hai năm ở Tam Kỳ, tôi có Ngữ, Nghị, Hòa, Bá. Tôi có Hồng chà- và, tôi có Gia Khanh. Ra Đà Nẵng, tôi không có ai quen. Đêm đầu tiên ngủ trong căn phòng lạ, tôi cứ thao láo mắt nhìn lên đỉnh mùng, bâng khuâng tưởng mình là Robinson đêm đầu tiên ngủ ngoài hoang đảo.
Sáng dậy, bác Đán đưa tôi một chiếc chìa khóa:
– Đây là chiếc chìa khóa phòng. Bác một chiếc, con một chiếc. Mỗi lần đi đâu nhớ khóa cửa lại.
Tôi “dạ”. Và cầm lên chiếc ổ khóa bằng đồng, tôi mở ra bấm vào cho quen tay.
Sau đó, tôi khóa cửa phòng, xách cặp đi học.
Từ chỗ tôi ở cuốc bộ đến trường mất khoảng hai mươi phút. Tôi rảo qua các dãy phố, quẹo ba ngã tư mới đến nơi.
Cũng như hôm khai trường, tôi ngồi trong lớp lẻ loi một mình một góc. Tụi bạn chung quanh chuyện trò như bắp rang, chẳng ai để ý đến một học trò tỉnh lẻ mới lên như tôi.
Ngồi cạnh tôi là một đứa có mái tóc dợn sóng, mặt xương xương, trông khá đẹp trai nhưng lại mắc tật nói lắp. Nó cũng ngồi lơ ngơ một mình như tôi.
Ngó quanh quất một hồi, nó xích lại gần tôi:
– Mày… mày ở Điện… Điện Bàn ra à?
Chờ thằng này nói hết câu, tôi ngóng muốn trẹo cổ. Nhưng dù sao có người bắt chuyện cũng hơn không. Tôi vui vẻ:
– Không, năm ngoái tao học trường Trần Cao Vân.
Thằng bạn mới gật gù vẻ hiểu biết:
– Quê… quê mày ở Tam… Tam Kỳ à?
– Không, tao ở Thăng Bình. Nhưng trường quê tao chưa mở cấp ba.
Nó gật gù:
– Mày… mày tên gì?
– Tao tên Khoa. Còn mày?
– Tao… tao tên Hồng… Hồng Hà.
Tôi ngạc nhiên:
– Hồng Hồng Hà à? Sao mày lót tới hai chữ Hồng lận?
Nó lắc đầu, vẻ khổ sở:
– Không… không phải! Tên tao là Hồng… Hồng Hà.
Tôi lại trố mắt:
– Thì hai chữ Hồng chứ gì nữa!
Nó giơ một ngón tay lên:
– Có… có một chữ Hồng… Hồng à.
Đến lúc này tôi mới sực nhớ đến cái tật nói lắp của nó, bèn nhe răng cười:
– Tao hiểu rồi. Tên mày là Hồng Hà.
Thấy tôi nói đúng tên nó, Hồng Hà sướng rơn. Nó lại giơ một ngón tay lên:
– Mày… mày… thông minh lắm.
Tôi thấy tôi chả thông minh tẹo nào nhưng nghe nó khen, tôi cũng vui vui.
Tới phiên tôi chất vấn:
– Năm ngoái mày học trường nào?
– Trần Quý… Quý Cáp.
Lần này thì tôi biết chắc ông Trần Quý Cáp này chỉ lót có một chữ Quý. Tôi nheo mắt:
– Vậy là mày ở Hội An ra?
Hồng Hà gật đầu:
– Ừ, Hội… Hội An là quê… quê tao.
Tôi hất đầu về phía những đứa khác:
– Mày biết tụi kia không?
– Không… không biết. Tụi nó chắc là học… học sinh trường này.
Do cảnh ngộ đưa đẩy, từ hôm đó tôi và Hồng Hà dần dần trở thành một đôi bạn thân.

*****

Nhưng hai đứa tôi chơi thân với nhau là chuyện sau này. Còn trong những ngày đầu, lòng tôi vẫn không nguôi buồn bã.
Tôi buồn đến mức đầu óc lúc nào cũng nhớ nhớ quên quên.
Hôm đầu tiên bấm cửa phòng, tôi không đem theo chìa khóa. Trưa, tôi về, bác Đán đi đâu mất. Tôi lục khắp các túi áo túi quần một cách vô vọng, những ngón tay muốn đục thủng các lớp vải mà chiếc chìa khóa vẫn chẳng thấy đâu.
Tôi lấy sợi kẽm chọc vào ổ khóa ngoáy quấy quá một hồi. Cuối cùng thúc thủ, tôi đành ném cặp xách rơi đánh xoạch vào bên trong rồi bám vách leo vô.
Không có bác Đán, tôi không biết đường mò đến nhà bà Dần nấu cơm tháng. Trưa đó, tôi ôm tập thơ Gửi hương cho gió nằm đọc cho quên cơn đói. Những câu thơ Xuân Diệu ru tôi ngủ thiếp lúc nào không hay.
Tôi bừng tỉnh khi cửa phòng xịch mở.
Bác Đán bước vào, giật bắn người khi thấy tôi nằm lù lù bên trong:
– Ủa, sao hồi trưa con không đi ăn cơm?
Tôi không dám nói tôi không biết đường đến nhà bà Dần:
– Dạ, con ăn rồi.
– Con ăn ở đâu?
– Dạ, ở trên trường! – Tôi phịa và nghe bụng reo lên – Con ăn bánh mì với tụi bạn.
Bác Đán sực nhớ ra:
– Ủa, con vào bên trong sao lại khóa cửa bên ngoài?
Tôi đỏ mặt:
– Dạ, hồi sáng con bỏ quên chìa khóa ở nhà! – Tới đây, tôi bỗng lây tật nói lắp của thằng Hồng Hà – Thế là… thế là con leo… leo vô!
Bác Đán ngước nhìn bức vách. Rồi như nghĩ ra điều gì, bác rảo bước lại chỗ bàn làm việc.
Tôi dõi mắt theo từng hành động của bác và tái mặt khi thấy bác cầm lên xấp hồ sơ in nguyên nửa dấu giày dơ hầy của tôi.
Tôi nhắm mắt lại, chờ một cơn trách mắng trút xuống đầu.
Nhưng bác Đán là người… hiền lương. Bác nói giọng nhẹ nhàng:
– Lần sau đi ra ngoài con nhớ đem theo chìa khóa nghe con!
Tôi thở phào:
– Dạ, con sẽ nhớ.
– Con cũng nhớ trưa và tối về ăn cơm với bác. Đừng ăn uống lung tung ngoài đường.
– Dạ, con nhớ.
Không biết bác Đán có tin những lời hứa hùng hồn của tôi không mà chợt nói:
– Bác với ba con thân nhau như anh em ruột. Bác lo cho con như lo cho con trai bác.
Giọng tâm tình của bác Đán khiến tôi nao nao trong dạ. Tôi bỗng hối hận vì đã leo vách vào phòng. Tôi hối hận vì đã làm bẩn hồ sơ giấy tờ của bác. Và tôi nói:
– Con sẽ nghe lời bác như nghe lời ba con.
Khi hứa như vậy, xin thề có trời đất chứng giám, tôi đã nói thật một trăm phần trăm. Tôi đã nói thật lòng bằng một giọng suýt khóc và ngày hôm sau tôi tiếp tục bỏ quên chìa khóa trong phòng.
Và bác Đán lại dịu dàng:
– Lần sau đừng vậy nữa nghe con?
Tôi “dạ”. Và lại bỏ chìa khóa trong phòng lần thứ ba.
Điều bá láp nào cũng vậy, hễ lặp lại đến lần thứ ba thì tới sắt đá cũng phải dao động. Mẹ của bậc đại hiền Tăng Sâm lần đầu tiên nghe người ta bảo Tăng Sâm giết người vẫn tỉnh bơ ngồi dệt vải. Bà tin tưởng tuyệt đối con mình và biết chắc đó là lời đồn nhảm. Người thứ hai chạy ngang qua nhà bảo Tăng Sâm giết người, bà vẫn thản nhiên tiếp tục công việc. Nhưng đến khi người thứ ba cũng lặp lại y như thế thì bà hốt hoảng quăng thoi bỏ chạy.
Mẹ Tăng Sâm còn không giữ nổi bình tĩnh trước một sự việc lặp đi lặp lại, huống gì bác Đán tôi.
Lần thứ ba, bác Đán tôi đã chán làm người hiền lương. Bác chán dịu dàng, nhỏ nhẹ. Bác lớn tiếng quở trách:
– Trời ơi là trời, mày làm sao thế hở con?
Tôi im lặng. Vì không biết trả lời sao.
Bác Đán ôm đầu:
– Đầu óc mày lãng đãng như thế, làm sao mà học hành, làm sao thuộc bài thuộc vở được hở con?
Tôi lí nhí:
– Năm ngoái con đứng nhất lớp.
– Đó là năm ngoái! – Bác Đán đưa mắt nhìn tôi, nghi ngờ – Năm ngoái chắc mày đâu có quên trước quên sau!
Năm ngoái đúng là tôi không lơ ngơ như năm nay thật. Chỉ vì năm ngoái tôi nhiều bạn. Chỉ vì năm ngoái tôi mải yêu. Dù yêu phải hoa hồng… xứ khác, chẳng tới đâu.
Năm nay tôi ra thành phố lạ. Tôi đang “buồn viễn xứ khôn khuây” như lời thơ Quang Dũng. Cho nên tôi cứ lơ lơ lửng lửng suốt ngày.
Cho nên cách nhau có một bức vách mỏng mà tôi cứ ở bên ngoài còn chiếc chìa khóa thân yêu của tôi cứ ở bên trong, hoài hoài như vậy. Chán ghê!

*****

Tôi càng chán hơn nữa khi phát hiện tụi bạn cùng lớp nói tiếng Pháp như gió, lại hay không tưởng nổi. So với cái giọng nhà quê của tôi, thật khác xa một trời một vực.
Tôi học sinh ngữ Pháp từ năm lớp sáu. Xưa nay, tôi luôn luôn đứng đầu lớp môn Pháp văn. Năm ngoái, tôi đứng nhất, “giáo sư” Bá đứng nhì.
Nhưng tôi là học sinh tỉnh lẻ. Dạy tôi lâu nay là các thầy giáo già. Các thầy dạy tôi kiểu tiếng Pháp nói theo giọng quê kiểng.
Các thầy trò ngước lên hàng chữ “C’est un matin” trên bảng, lớn giọng đọc:
– Xe ton ma tanh.
Chúng tôi ngồi dưới ê a đọc theo.
Hết “xe ton ma tanh” đến “xe ton banh lông”, “xe ton cờ ray giông”. Kiểu phát âm đó, thú thật chỉ có thầy trò tôi hiểu với nhau. Người Paris nghe, chắc họ phải đoán mò khổ sở.
Thầy giáo dạy tiếng Pháp năm lớp mười hai của tôi là thầy Xuân Thu, vừa tu nghiệp tại Pháp về.
Khác với các thầy giáo tôi học trước đây, từ đầu giờ đến cuối giờ thầy Xuân Thu “nổ” toàn tiếng Tây, không chêm một tiếng Việt. Tôi nghe như vịt nghe sấm.
Trong khi đó, những đứa khác tỉnh bơ. Thầy Xuân Thu “nổ” một tràng, tụi nó liền “nổ” một tràng khác, tụi nó lập tức đáp lễ bằng một tràng lạch tạch khác nữa. Những lúc đó, tôi tưởng như mình đang ngồi trong một lớp học bên Tây, mặt méo đi vì lo lắng.
Tiết tiếng Pháp nào cũng thế, thầy xuân Thu và tụi kia “nổ” qua “nổ” lại ì xèo suốt buổi học. Nhiều lúc, tai ù như xay lúa, tôi lại có cảm giác đang lạc vào một trận đấu súng, suốt buổi cứ co rúm trong góc lớp, nơm nớp sợ thầy ngoắt mình ra… đấu súng tay đôi.
Thấy tôi muốn són ra quần, Hồng Hà mỉm cười hỏi:
– Mày… mày nghe được… được hết không?
Tôi gật đầu:
– Tất nhiên là nghe đuợc hết.
– Mày… mày hiểu được… được hết không?
Tôi thở dài:
– Tất nhiên là không hiểu chữ nào hết.
Rồi tôi nhìn nó, mong tìm một đồng minh dốt đặc cán mai như mình cho đỡ tủi.
– Mày cũng không hiểu chữ nào phải không?
– Tao hiểu… hiểu được khoảng tám… tám, chín mươi phần trăm.
– Xạo đi mày! – Thấy thằng cà lăm này không chịu dốt như mình, tôi thình lình đổ quạu.
– Thật… thật đó! – Hồng Hà nuốt nước bọt – Tao… tao chỉ nói là… là dở!
Nghe lời thú nhận buồn bã của Hồng Hà, lòng tôi bất giác chùng xuống. Hồng Hà nói tiếng Việt còn khó khăn trăm bề, huống gì nói tiếng Pháp. Nó mà nói chữ “carotte”, sẽ không ai dám ăn củ cà rốt đó là cái chắc, thế nào nó cũng phát âm thành “ca… ca… rotte” cho mà xem. Người Pháp mà nghe tới chữ “caca” là bịt mũi bỏ chạy cả ngàn cây số. Tự nhiên tôi thấy tội nghiệp Hồng Hà. Trình độ tiếng Pháp của nó chắc không kém gì tụi bạn cùng lớp, chỉ tại cái tật nói lắp tai hại kia mà nó phải chịu thiệt thòi.
Để nó bớt buồn, tôi hỏi lảng sang chuyện khác:
– Tụi kia nói tiếng Pháp giỏi quá hén mày?
– Tụi… tụi nó đa số là học… học sinh lycée Pascal chuyển qua. Hôm… qua tao mới điều… điều tra ra.
Tôi tròn mắt:
– Tụi nó là dân trường Tây hả?
– Ừ.
– Ra vậy! – Tôi xuýt xoa – hèn gì tụi nó nói tiếng Tây y như… Tây!
Tôi chợt ngạc nhiên:
– Ủa, tại sao tụi nó không tiếp tục học ở bên Pascal mà chuyển qua đây làm gì?
– Tụi… tụi nó sợ rớt tú tài tiếng Pháp. Tụi… tụi nó cho rằng thi bên này dễ hơn.
Tụi này tính toán khôn ghê. Tôi nhủ bụng. Thi tú tài ban văn chương, môn tiếng Pháp được xếp tới hệ số 3. Tụi nó học lycée Pascal từ nhỏ, làm bài thi môn tiếng Pháp ẵm điểm chín, điểm mười là cái chắc.
Từ khi bắt đầu học tiếng Pháp, tôi đã nghe bạn bè trầm trồ kháo nhau về tụi học sinh trường Tây. Tụi nó bảo dân trường Tây học siêu lắm, lại toàn dân nhà giàu.
Tôi không ao ước là dân nhà giàu, tôi chỉ muốn học siêu. Vì tôi sợ thi rớt. Vì tôi sợ mỗi khi thầy Xuân Thu kêu lên, tôi cứ đứng trơ như phỗng sẽ làm trò cười cho thiên hạ.
Hôm sau, tôi đến lycée Pascal ghi tên học lớp đêm.

Chương 2:

Lycée Pascal gồm hầu hết là người Pháp. Hiếm hoi lắm mới gặp một người Việt.
Cô nhân viên bàn giấy bảo tôi ghi tên thi xếp lớp. Thấy mấy ông Tây bà đầm lượn qua lượn lại trước mặt, tôi sợ run, xin được khỏi thi:
– Cô cứ xếp em vào lớp thấp nhất.
– Lớp thấp nhất là lớp vỡ lòng.
– Dạ, em học lớp vỡ lòng cũng được.
Cô nhân viên ngó sửng tôi:
– Lớp đó chỉ dành cho các em bé bảy, tám tuổi em à.
Tự nhiên tôi thèm được nhỏ đi mười tuổi kinh khủng. Để được vào học lớp vỡ lòng. Để khỏi thi cử lôi thôi. Thi xếp lớp, ông Tây hỏi, tôi có hiểu quái gì đâu mà đáp. Xưa nay học tiếng Pháp, tôi khá môn luận văn, giỏi môn văn phạm, siêu đẳng khi phân tích từ và câu, và nhớ gần như toàn bộ cách chia các động từ bất quy tắc. Còn môn vấn đáp tôi chỉ đáng xếp vào lớp vỡ lòng với các em bảy, tám tuổi.
Tôi ấp úng:
– Trên lớp vỡ lòng là lớp gì hở cô?
– Trên lớp vỡ lòng là lớp một.
Tôi liếm môi:
– Vậy cô cho em vào lớp một.
– Không được! – Cô nhân viên lắc đầu.
– Được mà cô! – Tôi năn nỉ – Em hứa sẽ không chọc ghẹo, không bắt nạt các em bé cùng lớp! Thậm chí có bé nào mắc ị, em sẵn sàng dẫn bé…
Thấy tôi giơ tay lên chuẩn bị thề, cô nhân viên liền cắt ngang lời cam kết long trọng của tôi:
– Ở bên trường Việt, em học lớp mấy?
– Dạ, lớp mười hai.
– Vậy là em đang học cuốn Mauger 2?
Tôi run lên, linh cảm có điều chẳng lành:
– Dạ.
– Vậy tôi xếp em vào lớp tám.
Tôi nhảy dựng như bị ong đốt:
– Í, không được đâu cô ơi. Em học Mauger 2 nhưng học dở nhất lớp đó cô. Trình độ em chỉ ngang cuốn Le Francais élémentaire à.
Thấy tôi sắp sửa lăn đùng ra bất tỉnh, cô nhân viên nhượng bộ:
– Vậy tôi xếp em vào lớp bảy.
Tôi trả giá:
– Xuống luôn lớp sáu đi cô!
Thế là tôi vào lớp sáu trường Pascal, học chung với đám nhóc tì mười ba, mười bốn tuổi.
Lớp học bắt đầu từ năm giờ chiều, bốn giờ rưỡi tôi đã có mặt.
Lycée Pascal có cái sân đẹp tuyệt vời. Các bồn hoa nằm rải rác khắp nơi, các lối đi toàn rải sỏi.
Tôi đến sớm, ngồi trên ghế đá cạnh lối đi, đảo mắt nhìn từng khuôn mặt lướt qua, thấy khuôn mặt nào cũng nghiêm nghị và xa lạ.
Thỉnh thoảng thấy vài đứa con gái cỡ tuổi tôi ôm tập đi ngang qua trước mặt, tôi nhỏm người dậy tính làm quen nhưng rồi thấy tụi nó đầm điếc quí tộc quá, tôi bỗng ngài ngại, đành đặt đít ngồi xuống, tiếp tục câm như hến.
Tôi ngồi một mình ngoài sân suốt nửa tiếng đồng hồ, thấy thời gian sao mà đằng đẵng. Chỉ đến khi nghe tiếng chuông reo, tôi mới lững thững vào lớp và lấm lét chuồn tuốt xuống dưới góc.
Dạy lớp sáu là thầy Pierre, trùng tên với đại tông đồ của chúa Jésus, và đẹp trai không thua gì chúa Jésus.
Khuôn mặt thanh tú, mắt xanh biếc, tóc xõa thành lọn xuống hai vai, thầy Pierre vừa ngồi xuống ghế đã liếc nhìn một vòng khắp lớp.
Tôi có cảm giác thầy đang lia tiểu liên, liền rùng mình cúi đầu xuống, hy vọng thầy không kêu tôi đứng lên.
Thầy Pierre không phát hiện ra tôi thật. Sau khi quét mắt một vòng, thầy lật cuốn sách trước mặt và chấm viết vào sổ, kêu học trò lên trả bài.
Tụi học trò cầm theo sách của mình lên bảng, đọc bài lecturei trong sách và trả lời những câu hỏi của thầy dựa theo bài học.
Khi đứa học trò đầu tiên cất giọng đọc, tôi mừng rơn khi nhận ra đó là cuốn Mauger 1 tôi đã từng học qua.
Nhưng khi đứa học trò đọc xong, thầy Pierre bắt đầu hỏi thì tôi lại run cầm cập. Y như những tiết học tiếng Pháp của thầy Xuân Thu, tôi nghe thầy Pierre và thằng nhóc trên bảng đối đáp như gió, không tài nào hiểu kịp.
Thằng nhóc đi xuống, thằng nhóc khác lên. Hai thầy trò lại nổ lốp bốp khiến tôi càng xanh mặt. May mà hôm đó, thầy Pierre không kêu đến tôi.
Ngày hôm sau cũng diễn ra y như hôm trước. Tôi lại vểnh tai trâu nghe thầy Pierre giảng bài, tiếng được tiếng mất. Nhưng lần này tôi bớt run. Tôi đã xác định rồi. Rằng trình độ nghe và nói của tôi kém, tôi mới phải vào đây học. Tôi nhớ ai đó đã nói “Dốt không đáng sợ, đáng sợ là dốt mà không biết mình dốt”. Tôi dốt và tôi biết tỏng là mình dốt, vậy người khác không sợ tôi thì thôi, việc quái gì tôi phải sợ ai.
Tôi cũng nhớ cả lời ông bà dạy “Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe”. Ông bà ta thật giỏi, không hiểu làm sao các vị biết có ngày có một tên cháu chắt tám mươi đời của các vị chui vào lycée Pascal ngồi đực mặt trước ông thầy Tây mà sáng tác ra câu này để trấn an và hướng dẫn.
Tôi áp dụng tục ngữ Việt Nam vào trường Tây một cách suôn sẻ. Suốt một tuần tôi không hề thưa thốt. Tôi chăm chỉ dựa cột mà nghe.
Dù là nghe lõm bõm.
“Thánh” Pierre ỷ mình giữ chìa khóa cổng vào nước trời nên tỏ ra cao ngạo. Đã một tuần lễ trôi qua mà ông không nhận ra tôi đang lấp ló trước cửa thiên đường.
Chỉ có bọn học trò lóc : Dc là ngạc nhiên. Ngày đầu tiên, thấy tôi ló đầu vào lớp, chúng tưởng là giáo viên trợ giảng. Ngày hôm sau chúng nghi tôi là thầy giám thị. Bây giờ thì chúng đoan quyết tôi là người của… Sở điệp viên.

*****

Lớp đêm tôi đang theo học tan lúc bảy giờ. Không đêm nào tôi về nhà ngay. Tôi ôm tập đi lang thang qua các ngả phố để nghe nỗi buồn gặm nhấm trái tim tôi.
Tôi đi qua các ngã tư đèn màu, thấy lòng mình chớp nháy. Tôi vào các cửa hiệu chẳng để mua gì. Người qua đường không ai nhìn tôi.
Trong khi tôi nhìn tất cả mọi người. Để xem có ai quen. Để mong mỏi được gọi trên môi một cái tên thân thiết. Tôi thèm đuược thốt lên một cách ngạc nhiên sung sướng: “Ồ, Nghị, mày ra Đà Nẵng hồi nào vậy?”. Tôi thèm được reo tở mở: “A, Bá, mày ra ngoài này thăm bà con hả?”.
Cũng có đôi khi tôi mơ mộng đến một điều kỳ diệu: “Ủa, Gia Khanh đi đâu đây?” – “Khoa hỏi lạ! Gia Khanh đi tìm Khoa chứ đi đâu!” – “Tìm Khoa?” – “Ừ, tìm Khoa!” – “Chi vậy?” – “Gia Khanh nhớ Khoa lắm!”…
Thường thì tôi chỉ mới tưởng tượng đến đó, hình ảnh cuộc gặp gỡ giữa tôi và gã người yêu của Gia Khanh ở quán Ngàn Khơi dạo nọ lại hiện ra cắt đứt giấc mơ ngọt ngào trong đầu tôi.
Và tôi lại buồn bã quay về làm chàng chăn cừa cô đơn lang thang trên đồng cỏ, nhìn sao trời mà nhớ nàng Stéphanette.
Cho đến một hôm…
Hôm đó, sau khi ôm tập đi tha thẩn qua các phố khuya đến rã cẳng, tôi mệt mỏi lê gót về chỗ ở nằm trên đường Bạch Đằng chạy dọc sông Hàn.
Lúc đang xuôi theo đường Nguyễn Du để về bờ sông, tiếng đàn dương cầm không biết từ đâu vọng tới khiến tôi tự dưng bâng khuâng vô hạn và bất giác chùng bước lại.
Đường Nguyễn Du giờ này vắng vẻ, tiếng dương cầm càng thánh thót, và tôi không tài nào bước nổi. Tiếng đàn giữa đêm khuya đã níu chân chàng chăn cừa cô đơn.
Tôi sững sờ dừng chân bên hè phố, ngơ ngác nhìn quanh. Sau một lúc dáo dác, tôi phát hiện tiếng đàn kỳ diệu kia vọng ra từ ô cửa sổ sáng đèn trên lầu một ngôi nhà nhiều tầng bên kia đường.
Tôi còn nhìn rõ bóng người con gái tóc dài in lên bức rèm cửa cứ chốc chốc lại lay động mỗi khi có gió thoảng qua.
Trong một thoáng, tôi hiểu ra người con gái vô danh kia chính là nàng Stéphanette của tôi. Gia Khanh không phải là nàng Stéphanette. Gia Khanh chỉ là sao chổi Halley, thoắt hiện ra rồi biến mất khỏi cuộc đời tôi. Để cho tôi mừng hụt. Để cho tôi lúc nào cũng cảm thấy buồn thiu.
Trong những giờ phút quạnh hiu nhất của cuộc đời tôi, Gia Khanh đã không màng tìm đến. Chỉ có tiếng đàn dương cầm kia kịp lúc đến an ủi trái tim tôi, xoa dịu nỗi cô đơn trong lòng người con trai xa xứ.
Tôi ngồi bệt xuống hiên nhà bên này đường, bâng khuâng nhìn lên ô cửa bên kia, nghe tiếng đàn chảy qua lòng như dòng suối mát.
Tôi không dám băng qua đường. Tôi không dám ngồi dưới cửa sổ nhà nàng Stéphanette. Tôi sợ chó dữ nhà nàng xồ ra. Tôi sợ nàng hắt nước trúng đầu tôi. Như vậy thì giấc mơ của chàng chăn cừa sẽ tan biến.
Tối đó, tôi về đến nhà khuya lơ khuya lắc. Tiếng đàn đã ru tôi vào cơn mơ màng tự lúc nào không hay. Tôi chỉ đứng lên khi tiếng đàn đã ngưng, đèn trong nhà đã tắt và hai cánh cửa đã lạnh lùng đóng lại.
Bác Đán hỏi tôi:
– Sao hôm nay con về muộn thế?
Tôi nói dối:
– Con gặp một đứa bạn quen ở trong quê ra.
Bác Đán không hỏi gì thêm. Có lẽ vì bác thấy tôi buồn buồn. Có lẽ bác nghĩ tôi đang nhớ quê sau khi gặp lại bạn cũ.
Càng ngày bác Đán càng tin chắc điều đó khi thấy tôi dạo này mặt cứ thừ ra. Có khi bác bắt gặp tôi thẫn thờ như người mất của.
Bác Đán tôi đâu có biết đó là lúc chàng chăn cừu của bác đang bồi hồi nhớ nàng Stéphanette ngự ở lầu cao.
Suốt một tuần lễ liền, tối nào cũng thế, sau khi ôm tập ra khỏi cổng trường Pascal, dạo một vòng phố xá, tôi lại về ngồi bệt xuống vỉa hè đường Nguyễn Du, chong mắt lên ô cửa sổ sáng đèn ở tầng hai bên kia đường, ngẩn ngơ nghe tiếng piano phả nhạc xuống tâm hồn.
Tôi cứ ngồi như thế hằng buổi. Và ngẩn ngơ hằng buổi. Tiếng đàn thánh thót của nàng Stéphanette lúc đầu khiến tôi vui, nhưng càng về sau càng khiến tôi buồn nẫu ruột. Càng về sau tiếng đàn càng khiến tôi thấm thía sự lẻ loi của mình. Càng khiến tôi nhận ra tôi đang lủi thủi trên đường khuya giữa một thành phố lạ.
Nhiều lúc tôi an ủi mình bằng cách nghĩ rằng biết đâu sẽ có một hôm nàng Stéphanette thình lình vén rèm và nhìn thấy tôi đang ngồi nghệt mặt say sưa thưởng thức tiếng đàn của nàng. Thấy người hâm mộ yêu âm nhạc đến mức ngồi bệt dưới đất hằng giờ, chắc nàng sẽ vô cùng cảm động. Chắc nàng sẽ phóng xuống đất, tông cửa chạy ra và băng qua đường, vội vã đến mức quên mang cả dép.
Nàng sẽ đi chân trần đến trước mặt tôi, ngạc nhiên mấp máy: “Anh là ai?” – “Tôi là người yêu tiếng đàn của em” – “Anh ngồi đây tự bao giờ?” – “Từ lâu lắm rồi. Giờ này qua giờ khác. Đêm này qua đêm khác” – “Ôi, sao em không hề biết?” – “Rèm cửa đã che kín trái tim em” – “Sao anh không về nhà đi? Khuya rồi!” – “Tôi đã nghe sương xuống trên vai. Nhưng tôi là chàng trai lang thang, chỉ dừng chân nơi bến đỗ của tình yêu”.
Nàng Stéphanette học dương cầm, chỉ biết Beethoven, Mozart, Schubert, những nhà soạn nhạc thiên tài, khả kính. Chắc nàng không bao giờ nghe cải lương. Nên nàng không biết tôi đã thuổng những lời đối đáp mùi mẫn kia trong vở “Tình anh bán nón”.
Nàng không biết nên nàng nghe trái tim mình xao xuyến khôn tả. Nàng nói “Tội nghiệp anh ghê!” và xúc động nắm lấy tay tôi “Anh đứng lên đi!”. Tôi đứng lên. “Anh vào nhà em đi, đây chính là bến đỗ của anh”. Tôi theo nàng bước qua cửa thiên đường…
Khi tôi mơ thấy tôi bước qua cửa thiên đường cũng là lúc mắt tôi nhìn lên và thảng thốt nhận ra cửa sổ phòng nàng đã đóng tự đời tám hoánh nào. Chiếc chồi non mơ mộng của tôi chưa kịp đâm hoa đã vội héo khô ngay tắp lự.
Đêm đó, những câu thơ Nguyễn Bính đuổi theo tôi suốt dọc đường về:
Đêm qua và đêm nay
Và nghìn đêm về trước
Ta đi trên phố này
Ta đi trên phố khác
Hỡi nghìn cái cửa sổ
Rồi khép vào bên trong
Có thấu tình ta không
Có thấu tình ta khổ?
Cửa hàng nghìn khép lại
Tất cả một đêm nay
Có lòng ta rồ dại
Mở ra muôn ngàn ngày…

*****

Tôi rời bỏ lycée Pascal sau mười ngày thử thách. Tôi dựa cột mà nghe được chín ngày. Đến ngày thứ mười “thánh” Pierre phát hiện ra một con chiên lạ mặt.
Thật ra mọi sự đổ bể là do tôi.
Khi dạy tiết Analyse grammatical, thầy Pierre viết câu “Je crains qu’il ne vienne” trên bảng rồi kêu cả lớp phân tích từ ne trong câu.
Đám nhóc tì không đứa nào biết chữ ne đó là hư từ, trả lời sai be bét.
Phần vì ngứa ngáy, phần vì nhớ lời dạy “biết thì thưa thốt” của ông bà, tôi liền ngoác miệng hùng hồn:
– C’est un mot explétif!
Đang thất vọng trước hàng loạt câu trả lời bá láp, bỗng nghe có người đáp trúng, thầy Pierre mừng như bắt được vàng, liền reo lên sung sướng:
– Bien! Très bien!
Và thầy quay phắt xuống dưới:
– Qui?
Cả lớp chong mắt vào tôi khiến tôi đỏ bừng mặt, ngượng ngập đứng lên.
Thầy Pierre nhìn tôi bằng ánh mắt ngạc nhiên, rồi có lẽ tưởng tôi siêu môn tiếng Pháp của thầy, thầy liền “nổ” một tràng loằng ngoằng khiến tôi muốn té xỉu.
Rồi thấy tôi ấp a ấp úng, thầy Pierre lại tưởng tôi là bậc chính nhân quân tử, quen đức khiêm tốn không thích nói về mình nên “nổ” tiếp một tràng nữa để động viên.
Thấy hỏi liền hai câu mà tôi vẫn giương mắt ếch lên ngó, thầy Pierre đâm hoang mang. Thầy đưa tay vuốt mái tóc đẹp, ngờ ngợ nhìn tôi:
– Comprenez- vous?
Lần này thì tôi nghe rõ. Từ hồi bắt đầu học tiếng Pháp đến nay, đây là mẫu câu tôi nghe đã đến thuộc lòng: “Trò có hiểu không?”.
Gặp câu hỏi quen thuộc, tôi mừng quýnh như gặp bạn cố tri nơi đất khách quê người, liền nhanh nhẩu:
– Non! Non!
Tôi nói “Em không hiểu” mà mặt cứ tươi hơn hớn. Tất nhiên mặt tôi rạng rỡ bao nhiêu thì mặt thầy Pierre buồn thảm bấy nhiêu. Tôi đã làm tan vỡ giấc mơ phát hiện nhân tài của thầy. Trong thâm tâm tôi cũng cảm thấy áy náy nhưng chẳng biết làm sao. Tôi rất muốn đem lại niềm vui cho thầy nhưng việc đó quả thực nằm ngoài khả năng của tôi.
Thầy Pierre nhìn xoáy vào mặt tôi thêm một lúc như để xác nhận câu trả lời thông thái vừa rồi của tôi là hiện tượng “chó ngáp phải ruồi”, rồi uể oải vẫy tay ra hiệu cho tôi ngồi xuống.
Tôi ngồi xuống và ngay trong khoảnh khắc ấy, tôi biết chắc mình không đủ can đảm tái ngộ “thánh” Pierre và đám con chiên lóc : Dc của thầy thêm một lần nào nữa.
Ngày hôm sau tôi giã từ lycée Pascal, giã từ khuôn viên xinh đẹp với những bồn hoa và lối đi rãi sỏi, giã từ giấc mộng trở thành học sinh trường Tây.
Nhưng dù không còn đi học thêm, chiều chiều tôi vẫn áo quần tề chỉnh ôm tập ra khỏi nhà.
Bác Đán không biết dạo này tôi không hề bén mảng đến thiên đường do “thánh” Pierre canh giữ mà mon men đến thiên đường của nàng Stéphanette trên đường Nguyễn Du.
Tôi đến trước cửa nhà nàng với vẻ sùng kính của một con chiên ngoan đạo đến trước cửa nhà thờ. Tôi đến đó để chiêm bái tình yêu. Dẫu là tình yêu trong tưởng tượng. Dẫu nàng Stéphanette chưa một lần ngứa tay vén rèm cửa sổ. Và lẽ dĩ nhiên là nàng không hề biết đêm đêm vẫn có một người ngồi bên kia đường say sưa nghe tiếng đàn của nàng và mê mải ngắm bóng nàng in trên rèm cửa.
Trong thời gian đó, tôi bắt đầu làm thơ.
Năm ngoái tôi đã từng cộng tác với “giáo sư” Bá làm những bài thơ con cóc, bị thằng Ngữ tức nhà thơ Ngu Kha chê tới chê lui. Nhưng năm ngoái tôi chưa biết buồn, tôi chưa biết cô đơn, tôi không có nỗi ưu tư nào cần giải tỏa. Tôi làm thơ chỉ để mong in lên báo tường của lớp. Vì vậy, thơ tôi dở ẹc. Vì nó không có hồn.
Năm nay thơ tôi đẫm nhớ nhung. Chàng chăn cừu làm thơ cho nàng Stéphanette, thơ bắt buộc phải hay.
Những vần thơ cô độc chảy ra từ trái tim tôi:
Tôi là chàng chăn cừu cô đơn lang thang trên đồng cỏ
Đêm không biết làm gì, ngồi đếm sao thưa
Có những lúc buồn không sao ngủ được
Mơ hồ tiếng ai trong tiếng gió lùa
Bác Đán thấy tôi những ngày gần đây hết ngơ ngơ ngác ngác lại tối tối chong đèn thức khuya lơ khuya lắc, lấy làm tò mò lắm.
Một hôm, bác hỏi:
– Con làm gì đấy hở con?
Thoạt đầu, tôi định chối. Nhưng không hiểu sao tôi lại thú thật:
– Con đang làm thơ.
Bác Đán gật gù:
– Những khi nhớ quê, người ta thường làm thơ con ạ!
Bác Đán tưởng tôi nặng lòng sầu xứ. Bác cổ vũ tôi:
– Con cứ làm thơ đi. Những vần thơ sẽ giúp con vơi đi nỗi nhớ!
Tôi không đính chính, chỉ ậm ừ.
Nào ngờ bác Đán chìa tay ra:
– Con đưa cho bác xem thử nào.
Không biết làm sao từ chối, tôi rụt rè đưa bài thơ đang làm dở cho bác.
Trong khi bác đọc, tôi lấm lét nhìn trộm, thấy mày bác càng lúc càng nhíu lại.
Đọc gần hết bài thơ, bác ngỡ ngàng kêu lên:
– Như vậy là con đang nhớ con bé nào chứ đâu phải đang nhớ quê!
Tôi cúi gầm mặt, không đáp.
– Có đúng vậy không con?
Tôi lí nhí, vẫn không ngẩng đầu lên:
– Dạ.
Tôi tưởng bác Đán sẽ rầy la, mắng mỏ. Nhưng bác chỉ thở dài:
– Cháu của bác đã là chàng thanh niên mà bác không để ý.
Và bác khuyên, giọng ân cần:
– Nhưng dù sao cũng đừng để bọn con gái hớp mất hồn con ạ. Đời con còn bao nhiêu việc phải làm.
Tôi lại “dạ”, và không biết nói gì thêm.
Khuya đó, tôi cặm cụi làm cho xong bài thơ và sáng hôm sau gửi cho một tờ báo ở Sài Gòn: tuần báo Bạn Trẻ.

Chương 3:

Tôi gửi thơ cho tuần báo Bạn Trẻ là gửi cho vui, không mong gì được đăng.
Sau ba tuần đọc “cọp” báo Bạn Trẻ ở hiệu sách gần trường, chẳng thấy bài thơ của mình đâu, tôi chán nản không màng theo dõi nữa.
Tôi thất vọng hiểu rằng mộng ước trở thành thi sĩ của tôi thế là đã tan thành mây khói.
Nhưng cuộc đời không hoàn toàn tệ bạc với tôi. Những ngày đó, tôi phấn khởi nhận ra tụi học sinh chuyển qua từ lycée Pascal không siêu đẳng như tôi tưởng.
Tụi nó nói tiếng Pháp như gió nhưng khi làm bài tập grammaire, chúng thường ít điểm hơn tôi. Và khi làm rédaction, tức môn luận văn, chúng càng thua tôi rõ rệt. Thua cả thằng Hồng Hà.
Tụi lycée Pascal viết tiếng Pháp như viết tiếng mẹ đẻ, dùng temps dùng mode chính xác cực kỳ, nhưng ý tưởng lại đơn giản.
Trong khi tôi và Hồng Hà được trui rèn trong văn chương tiếng Việt từ bé, bốn năm học phân tích bình giảng văn thơ đến : Dng mặt, do đó khi làm luận văn, ý tưởng của hai đứa tôi luôn luôn phong phú hơn. Đó cũng là nhận xét của thầy Xuân Thu. Bao giờ chấm bài tập rédaction của tôi, thầy cũng hào phóng phê “ý dồi dào, văn gãy gọn”.
Hôm bài rédaction đầu tiên được phát ra, thấy bài làm của tôi cao điểm nhất, tụi Pascal ngạc nhiên lắm. Chúng không tin một tên học sinh tỉnh lẻ lù khù, lần nào bị thầy Xuân Thu kêu lên cũng đứng ngay cán cuốc lại có “tài” đến thế.
Chúng cứ nhìn về phía tôi, xì xào bàn tán. Thằng Đông Anh ngồi gần tôi nhất. Ngập ngừng một lát, nó chìa tay ra:
– Ê, Khoa! Cho tao mượn bài làm của mày coi chút nào!
Tôi rụt rè đưa tờ giấy cho nó, bụng thấp thỏm không biết tụi này định khiếu nại, kiện cáo gì về bài làm của tôi với thầy Xuân Thu đây.
Thằng Đông Anh coi bài của tôi lâu thật lâu, xong chuyền qua cho thằng Diên bên cạnh. Một lát, thằng Diên chuyền cho thằng Bội. Thằng Bội chuyền cho thằng Minh Khôi.
Sau khi tụi Pascal chuyền lòng vòng một hồi, thằng Đông Anh đưa trả bài lại cho tôi, miệng xuýt xoa thán phục:
– Đứa nào cũng khen mày viết văn hay! Tụi tao không bắt chước cách viết bay bướm của mày được.
Tôi thở phào. Hóa ra tụi Pascal không nhỏ mọn như tôi nghĩ. Chúng mượn bài làm của tôi để xem cho biết, để “học hỏi”, chứ không phải để “vạch lá tìm sâu” như những kẻ đố kỵ.
Tự nhiên tôi thấy khoảng cách giữa một học sinh tỉnh lẻ như tôi với tụi học sinh trường Tây được thu ngắn đáng kể.
Tôi nói với Đông Anh:
– Tao viết chả có gì đặc biệt. Tụi mày thừa sức viết như tao.
Đông Anh cười hiền lành:
– Mày khiêm tốn đấy hở?
Tôi cũng cười:
– Đâu có.
Tôi nói “đâu có” và tôi tiếp tục đạt điểm cao nhất ở môn rédaction lần thứ hai, lần thứ ba và không lần nào chịu tụt xuống hạng nhì từ đó cho đến cuối năm.
Nói cho đúng ra, sở dĩ tôi toàn thắng ở môn rédaction phần lớn nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình của Hồng Hà.
Làm luận văn, văn phạm vững vàng, ý tưởng phong phú chưa đủ. Cần phải có vốn từ dồi dào để thể hiện những ý tưởng đó. Mà ở môn từ vựng, tôi không phải là một học sinh xuất sắc.
Nhưng tôi đã có Hồng Hà. Nó là một cây từ vựng. Trong giờ luận văn, mỗi khi nghĩ ra được một ý hay hay nhưng không nhớ từ tương đương bên tiếng Pháp, tôi chỉ việc quay sang Hồng Hà:
– “Cảm hứng” là gì hở mày?
– L’enthousiasme.
– “Trong khoảng xa xăm” viết sao hở mày?
– Dans le lointain.
– Còn “cứu rỗi” là gì?
– La rédemption.
Hồng Hà đáp như máy, không cần suy nghĩ. Khi trả lời những câu hỏi của tôi, nó vẫn tiếp tục làm bài của nó, không buồn ngẩng đầu lên. Tất nhiên là nó không nói trôi chảy được như thế. Chữ “L’enthousiasme bao giờ cũng phải là “L’en… L’enthousi… siasme”.
Nhưng chính nhờ nó mà trí tưởng tượng của tôi tha hồ bay bổng. Tôi không sợ thiếu từ để diễn tả. Tôi chỉ có một nhiệm vụ đơn giản là làm sao nghĩ ra được càng nhiều ý hay càng tốt, sao cho tụi thằng Đông Anh phải luôn luôn tâm phục khẩu phục “tụi tao không bắt chước mày được”.
Ở môn rédaction, tôi lúc nào cũng đứng nhất, Hồng Hà lúc nào cũng đứng nhì. Nhưng Hồng Hà không bao giờ ghen tị với tôi. Mặc dù nó thừa hiểu, khi tôi hỏi, nếu nó không thèm đáp hoặc vờ bảo “không biết”, tôi sẽ không thể nào đứng vững trên đỉnh cao : Dt vót của môn rédaction lâu như thế.
Nhưng Hồng Hà là đứa bạn tốt. Nó không thèm cạnh tranh với tôi. Nó chấp nhận đứng thứ hai, miễn là trên tụi thằng Đông Anh, thằng Diên, thằng Bội…
Hồng Hà là chúa “cục bộ trường Tây – trường ta”. Mỗi lần thầy Xuân Thu phát bài tập rédaction, Hồng Hà bao giờ cũng sung sướng thì thầm vào tai tôi:
– Tụi… tụi Pascal học không bằng tụi trường… trường Việt mình đâu!
Và để bảo vệ sự hơn hẳn của “tụi trường Việt mình”, Hồng Hà sẵn lòng làm cuốn từ điển sống cho tôi “tra cứu” bất kỳ lúc nào.
Hồng Hà là một cuốn tự điển sống hiểu theo nghĩa đen. Vì nó thuộc lòng nguyên cả cuốn từ điển Pháp Việt dày cộm, không sót một từ.
Phát hiện đó làm tôi vô cùng kinh hãi.
Thoạt đầu, mỗi khi bí từ vựng, tôi thường quay sang hỏi nó. Mặc dù tôi hỏi đâu, nó đáp đó, không bao giờ bí, cũng không bao giờ ngập ngừng, nhưng tôi chẳng chú tâm lắm. Tôi chỉ nghĩ tại tôi kém từ vựng. Tôi nghĩ vốn liếng của Hồng Hà chắc chỉ hơn tôi chút đỉnh và dĩ nhiên là không thể nào sánh bằng tụi Pascal.
Nhưng càng ngày tôi càng ngạc nhiên, khi nhận ra nhiều lúc tôi hỏi những từ vô cùng khó, nó vẫn chẳng thèm lúng túng mảy may.
– “Sự chiếu lệ” là gì hở mày?
– La routine.
– “Chim gõ kiến” là gì?
– Le pic.
– “Vong hồn”?
– Les mânes.
Tôi trố mắt khâm phục:
– Sao mày biết nhiều từ quá vậy?
– Ừ.
Hồng Hà trả lời chán phèo.
Tôi lại hỏi:
– Có từ nào mày không biết không?
– Chắc là có.
Tôi thăm dò:
– “Người bán thuốc Tây” gọi là gì?
– Le droguiste.
Tôi nhíu mày cố nghĩ một từ thật hóc hiểm:
– “Nền quân chủ lập hiến”?
Hồng Hà vẫn tỉnh khô:
– La monarchie constitutionnelle.
Đầu tôi xoay tít:
– “Bạch huyết cầu”?
– Le leucocyte.
Hồng Hà đối đáp như gió làm tôi đâm nghi:
– Đúng không đó mày?
– Đúng chứ.
Tôi chớp mắt:
– Tao nghi mày bịa ra quá.
Hồng Hà mỉm cười:
– Không tin thì mày giở từ điển ra coi lại đi.
Không cần Hồng Hà nhắc đến lần thứ hai, tôi lật đật lôi cuốn từ điển Việt Pháp trong ngăn bàn ra, lật vần B, dò chữ “bạch huyết cầu”.
Chữ “leucocyte” đập vào mắt khiến tôi xanh mặt.
– Có… có chữ đó không?
Tôi xụi lơ:
– Có.
Rồi tôi huơ cuốn từ điển trên tay:
– Bây giờ tao nhìn vào đây để hỏi mày nghe?
Tôi hỏi một câu cho có lệ rồi chúi đầu vào từ điển dò dẫm, không để Hồng Hà kịp từ chối. Tôi tin chắc lần này tôi sẽ bắt bí được thằng cà lăm này. Để tự tôi nghĩ ra, có thể tôi sẽ không nghĩ được những từ hóc búa đến mức “hạ gục” được nó, chứ nếu cho tôi nhìn vào từ điển để hỏi, chắc chắn tôi sẽ khiến nó khóc thét.
Tôi hí hửng nghĩ bụng và hăm hở “dò bài”, tất nhiên tôi cố tâm lục toàn những từ “độc chiêu”, khi học tiếng Việt còn chưa chắc gặp nữa là học tiếng Pháp:
– “Con kỳ nhông”?
– La salamandre.
– “Khí tượng học”?
– La météorologie.
Tôi bặm môi lật tới lật lui cuốn sách trên tay:
– “Lạc đà một bướu”?
– Le dromadaire.
– “Chứng liệt thần kinh”?
– L’anévrose.
Tôi bắt đầu thở dốc:
– “Vi khuẩn hình dấu phẩy”?
– Le vibrion.
Tới đây thì tôi hoàn toàn chán nản, không buồn kiểm tra vốn từ của Hồng Hà nữa. Tôi quay sang kiểm tra kiến thức y học của nó:
– “Vi khuẩn hình dấu phẩy” là gì, mày có biết không?
Hồng Hà bối rối:
– Tao… tao không biết.
Tôi nhếch mép:
– Không biết sao mày còn học từ đó làm chi?
Hồng Hà khụt khịt mũi:
– Trong… trong từ điển có từ gì tao học từ nấy. Tao… tao học từ trên xuống dưới mà.
Tôi há hốc mồm:
– Học từ trên xuống dưới?
– Ừ, từ… từ trên xuống dưới.
– Tức là học từ trước ra sau?
– Ừ, từ… từ trước ra sau.
– Tức là mày học thuộc nguyên cả cuốn từ điển?
– Ừ.
Hồng Hà “ừ” nghe nhẹ tưng. Trong khi tôi choáng váng đầu óc. Trước đây tôi có nghe chuyện một nhà cách mạng học thuộc cả cuốn từ điển. Bị bắt vô tù, ông không mang theo gì ngoài cuốn từ điển Pháp Việt. Mỗi lần đi ị, ông xé một tờ cầm theo và học thuộc lòng ngay trên hố xí, trước khi dùng nó làm vệ sinh. Ngày này qua ngày khác, cuốn từ điển mỏng dần và vốn từ của ông cũng dày dặn dần. Đến khi ông xé tới trang cuối cùng, mấy chục ngàn từ đã vào cả bụng ông. Nghe nói, sau khi ra tù, ông trở thành một nhà dịch thuật siêu hạng.
Câu chuyện trên chỉ là truyền thuyết, chẳng rõ thật hư. Cũng có thể câu chuyện đó được truyền tụng nhằm đề cao cái chí của người hoạt động cách mạng hơn là nói về sự hiếu học.
Khi nghe chuyện, tôi thích tưởng tượng ra cảnh nhà cách mạng đang ngồi học bài để tủm tỉm cười hơn là nghĩ đến chuyện noi gương học tập. Tôi không tin con người ta có thể học thuộc nguyên cả cuốn từ điển. Vì tôi tin sức người có hạn.
Nhưng Hồng Hà đã phá vỡ định kiến của tôi. Nó chứng minh ngược lại: sức người là vô hạn. Nó không làm cách mạng, không đi tù, không ngồi trên hố xí, nhưng vẫn thuộc lòng mấy chục ngàn từ, kể cả những từ có lẽ suốt đời nó không bao giờ dùng đến.
Tôi ngẩn ngơ nhìn nó:
– Làm sao mày có thể học thuộc cả cuốn từ điển dày cộm như vậy?
Hồng Hà gãi đầu:
– Có… có gì đâu! Đi… đi đâu tao cũng cầm theo cuốn từ điển, hễ… hễ rảnh là giở ra học!
Tôi thắc mắc:
– Nhưng cuốn từ điển dày như thế…
– Thoạt đầu tao… tao học vần A trước. Học hết vần A, tao lật sách tiếng Pháp, thấy từ nào bắt đầu bằng chữ A là tao xem thử mình có nhớ không…
Tôi trố mắt nghe Hồng Hà trình bày phương pháp học tập của nó. Phương pháp của nó không có sách nào bày, chỉ do nó tự nghĩ ra. Vì vậy nghe kỳ quái vô cùng: Sau khi cắm đầu học thuộc ba mẫu tự tiếp theo, nó vỗ ngực tự hào: Ông học tiếng Pháp, bí từ nào thì bí, nhưng những từ bắt đầu bằng chữ A, chữ B, chữ C, chữ D thì dứt khoát là ông bỏ túi!
Cứ như thế, Hồng Hà lần lượt học hết chữ cái này đến chữ cái khác. Nó học theo kiểu “kiến tha lâu cũng đầy tổ”, kiên nhẫn tha từng từ vào trí nhớ. Khi tôi gặp nó, Hồng Hà đã là cuốn từ điển sống lừng danh ở trường Trần Quý Cáp mấy năm nay, ngay cả thầy cô mỗi lần gặp từ khó đều phải “hạ mình” hỏi nó.
May làm sao, cái giỏi của nó chính là cái hên của tôi. Không có nó ngồi cạnh, suốt đời tôi vẫn “rét” tụi Pascal.

*****

Niềm vui của tôi không dừng lại ở môn rédaction.
Những ngày buồn bã vừa qua, tôi gửi liên tiếp ba lá thư cho “giáo sư” Bá, than vắn thở dài.
Sợ tôi buồn tình nhảy xuống sông Hàn, Bá nhanh : Dng hồi âm. Trong thư, bằng một giọng ân cần rất mực, nó khuyên tôi cố gắng thích nghi với hoàn cảnh mới và hứa nếu có cơ hội nó sẽ ra thăm tôi.
Rồi dường như biết chắc mình sẽ nuốt lời hứa, nó nhiệt tình giới thiệu cho tôi nhỏ Minh Hoa đang học trường Trưng Vương ở Đà Nẵng.
Nhỏ Minh Hoa là người Đại Lộc, quê Bá. Hồi cấp hai, Bá với Minh Hoa học cùng lớp. Bá mê con nhỏ này như điếu đổ nhưng nhát gan không dám nói. Lên cấp ba, Bá vô Tam Kỳ, Minh Hoa ra Đà Nẵng và cho đến nay hai đứa vẫn chỉ là bạn.
Tất nhiên Bá căm ghét cái tình bạn bất đắc dĩ này vô hạn. Nó thề sẽ có một ngày nó ra tay phá vỡ cái tình bạn đó không thương tiếc để thay thế bằng một thứ tình cảm khác, đậm đà hơn.
Bá bộc bạch điều đó trong thư và ghi cho tôi địa chỉ nhà trọ của Minh Hoa.
Phía dưới địa chỉ là một lời đe dọa mang tính chất khủng bố: “Biết mày ở ngoài đó không có bạn, tao giới thiệu Minh Hoa để mày có người trò chuyện. Và chỉ trò chuyện thôi. Chớ dại dột đi xa hơn! Ký tên: Sát thủ hoa hồng”.
“Sát thủ hoa hồng” là biệt danh mới của Bá. Nó nghĩ ra cái biệt danh chết : Dc này chắc để hù tôi.
Nhưng Bá đã quá lo xa. Bá không biết tình cảm của tôi hiện nay đang dồn hết vào ô cửa sổ nhà nàng Stéphanette và trái tim tôi đêm đêm vẫn phập phồng đập trên vỉa hè đường Nguyễn Du.
Tôi nhét lá thư của Bá vào túi và mỉm cười. Bây giờ thì tôi hiểu tại sao năm ngoái Bá thờ ơ với người đẹp Gia Khanh trong khi Ngữ, Nghị, Hòa và tôi chen lấn nhau để mong chộp được đuôi sao chổi Halley. Hồi đó, tôi hỏi, Bá vênh vênh “Tao khác tụi mày. Tao không thích chạy theo bọn con gái, chỉ thích làm giáo sư”. Hóa ra lúc đó, trái tim Bá đã thuộc về Minh Hoa.
Trưa, ăn cơm xong, tôi lò dò đến chỗ ở của Minh Hoa với một gói kẹo trên tay. Tôi làm theo lời dặn dò của Bá: Hãy mua một gói kẹo và nói với nàng đó là quà tao gửi từ Tam Kỳ ra!
Minh Hoa là một con nhỏ xinh xắn và cởi mở. Biết tôi là bạn thân của Bá, nó tiếp chuyện tôi rất thân tình:
– Khoa mới ra Đà Nẵng hở?
– Ừ.
– Sao Khoa không học tiếp ở trường Trần Cao Vân?
– Trần Cao Vân năm nay chưa mở lớp mười hai ban C.
– Thế Bá thì sao? Bá vẫn học ở đó mà!
– Bá phải chuyển qua học ban B.
Minh Hoa ở trọ với một đứa em trai. Nó sai em rót nước mời tôi rồi hỏi tiếp:
– Ra đây Khoa ở đâu?
– Ở đường Bạch Đằng, với ông bác.
– Từ đường Bạch Đằng lên chỗ Minh Hoa hơi xa. Khoa đến đây bằng gì?
– Tôi đi bộ.
– Đi bộ?
Minh Hoa tròn xoe mắt. Nó đâu có biết khoảng cách từ chỗ tôi ở với nhà nó đâu có thấm tháp gì so với quãng đường tôi lang thang hằng đêm trên phố vắng.
Tôi cười:
– Tôi đi bộ quen rồi.
Và như để chứng minh câu nói của mình, tôi tuyên bố:
– Cứ vài ba ngày tôi sẽ ghé đây chơi.
Minh Hoa vui vẻ:
– Ừ, khi nào buồn Khoa cứ ghé. Bá viết thư cho Minh Hoa bảo Khoa mới ra đây nên chưa có bạn.
Tôi giữ đúng lời hứa. Từ hôm đó, cứ khoảng vài ba ngày tôi ghé chơi với chị em Minh Hoa một lần. Tình bạn đã giúp tôi đỡ trống trải.
Tôi bớt thấy lẻ loi. Tôi không còn cô độc, mặc dù đêm đêm tôi vẫn đắm mình trong tiếng dương cầm vọng ra từ cửa sổ nhà nàng Stéphanette để thấy hồn mình phiêu phưởng tận đâu đâu.
Bác Đán thấy tôi dạo này đã thôi bỏ quên chìa khóa trong phòng, không khỏi ngạc nhiên:
– Con đã thôi quên trước quên sau?
– Dạ.
– Bác thấy dạo này con vui hẳn?
– Dạ.
Bác Đán nhìn tôi lom lom:
– Hình như gần đây con thường đến nhà bạn gái?
Câu hỏi đột ngột của bác Đán khiến tôi vô cùng sửng sốt. Nhưng rồi tôi hiểu ngay: Chắc thấy tôi dạo này ăn trưa xong thường tếch ra khỏi nhà nên bác nghi ngờ. Tôi đành chép miệng:
– Dạ.
– Chuyện đó không có gì sai! – Bác Đán thở dài – Nhưng dẫu sao cũng đừng quên chuyện bài vở nghe con. ánh mắt mỹ nhân xưa nay đã đánh đắm bao nhiêu anh hùng.
Rồi bác cảm khái ngâm nga:
– Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách
Sắc bất ba đào dị nịch nhân.
Tôi vội vàng cải chính:
– Nhỏ này chỉ là bạn, bác ạ. Bạn bè bình thường thôi. Nó quê ở Đại Lộc, người yêu của bạn con.
Bác Đán giật mình:
– Con bé đó là người yêu của bạn con?
– Dạ.
Mắt bác Đán trố lên:
– Thế sao con lại làm thơ đòi thương nhớ nó?
Bác Đán ôm đầu:
– Ôi, con làm vậy là không được nghe con!
Tôi đỏ mặt:
– Bác ơi, làm gì có chuyện đó.
– Con đừng chối! – Bác Đán nhún vai – Chính bác đã đọc bài thơ con làm cho con bé đó…
Đến đây thì tôi chợt vỡ lẽ.
– Bác lầm rồi! – Tôi quýnh quíu thanh minh – Bài thơ đó con viết cho đứa khác.
– Đứa khác? – Bác Đán giật mình lần thứ hai – Còn đứa nào nữa? Con mới ra đây chưa được một tháng sao quen nhiều con bé vậy?
Câu nói hàm ý trách móc của bác Đán khiến tôi dở khóc dở cười. Cuối cùng, để bác Đán khỏi hiểu sai về mình, tôi đành rụt rè thú nhận:
– Con bé này cháu không quen, bác ạ.
– Không quen sao con lại thương nhớ nó? – Bác Đán nhìn tôi đăm đăm – Chắc con nhìn thấy nó từ xa?
Tôi cắn môi:
– Con cũng chưa nhìn thấy nó.
Bác Đán vò đầu:
– Thế thì lạ thật!
Tôi lí nhí giải thích:
– Con nghe tiếng đàn của nó và con thấy… bóng nó in trên rèm cửa.
– Chỉ vậy mà con đã thương, đã làm thơ cho nó? – Giọng bác Đán đượm lo lắng – Như vậy con quá lãng mạn. Người lãng mạn khi ra đời khó sống lắm con ơi. Con cố quên con bé đó đi!
Bác Đán nói đúng. Không cần đợi đến lúc ra đời, ngay từ bây giờ tôi đã thấy khó sống. Tôi cứ nghĩ mãi về nàng Stéphanette trong khi nàng không biết tôi là ai. Đầu óc tôi chứa đầy những mơ ước vẩn vơ. Tôi sung sướng với những hình ảnh do tôi nắn nót vẽ ra trong tâm trí rồi đau khổ khi sực nhớ chúng chỉ là tưởng tượng. Tôi đã thức ròng rã đêm này qua đêm khác. Chỉ để làm thơ cho nàng Stéphanette. Đến nay tôi đã viết được gần chục bài.
Tôi biết bác Đán lo cho tôi. Nhưng tôi không đủ dũng cảm làm theo lời bác. tôi biết mình khó lòng “quên con bé đó đi”.
Nghe bác khuyên, tôi ngoan ngoãn “dạ, thưa bác” và hôm sau tôi lại chôn chân trên lề đường Nguyễn Du để rồi về nhà chong đèn thức khuya lắc khuya lơ.
Sáng dậy, thấy mắt tôi đỏ kè, bác Đán chỉ biết lắc đầu.

*****

Tôi làm hàng đống thơ tình. Làm rồi để đó. Sau khi gửi bài thơ “Giấc mơ của chàng chăn cừu” cho tuần báo Bạn Trẻ, thấy bặt vô âm tín, tôi không màng gửi thơ đăng báo nữa.
Tất nhiên tôi cũng không đủ can đảm xếp những bài thơ thành tàu lượn để ném vào cửa sổ nhà nàng Stéphanette. Nếu muốn, tôi cũng không có cơ hội. Rèm cửa nhà nàng luôn luôn buông kín.
Rốt cuộc, chỉ có tôi đọc thơ tôi. Tôi soi nỗi lòng mình vào những vần thơ, thấy sao mà buồn da diết. Chị em Minh Hoa giúp tôi bớt quạnh hiu nhưng không thể giúp tôi nguôi sầu muộn.
Tôi là chàng chăn cừu cô đơn. Và tôi cũng là chàng thi sĩ cô đơn, yêu trong bóng tối, làm thơ trong nóng tối và tên tuổi cũng suốt đời chìm trong bóng tối.
Nhưng Hồng Hà đã chứng minh ngược lại. Nó luôn luôn phá vỡ định kiến của tôi.
Một buổi sáng, tôi lò dò vào lớp, thấy tụi bạn dồn mắt vào tôi, reo ỏm tỏi:
– Ê, nhà thơ tới kìa!
Tôi ngơ ngác nhìn quanh, chẳng hiểu gì.
Thằng Bội huơ tờ báo Bạn Trẻ trên tay:
– Bài thơ “Giấc mơ của chàng chăn cừu” hay quá!
Đến lúc đó tôi mới thấy tờ báo trên tay thằng Bội. Và câu nói của nó làm tôi nghe như có một luồng điện chạy dọc sống lưng:
– Mày nói gì?
– Mày đừng giả vờ! – Bội chìa tờ báo ra trước mặt tôi, toét miệng cười – Hồi nãy chính thằng Hồng Hà đem tờ báo này vô lớp, nó bảo mày in thơ trong này!
Tôi cầm tờ báo, nôn nóng lật từng trang, hồi hộp dò tìm.
Khi bài thơ “Giấc mơ của chàng chăn cừu” đập vào mắt, tôi phải chớp lia chớp lịa để tin rằng mình không nhìn lầm.
Đến khi biết chắc đó chính là bài thơ của mình, tôi bỗng rơi vào một trạng thái kỳ lạ, một cảm giác đê mê trước đây tôi chưa từng trải qua.
Tôi cầm tờ báo trên tay, ngất ngây sung sướng. Và tôi sẽ còn thừ mặt ra như thế hằng giờ nếu Hồng Hà không bước lại vỗ vai tôi:
– Mày… mày là thi sĩ mà giấu bạn bè hả?
Tôi nói như người trong mơ:
– Tao là thi sĩ?
– Còn gì nữa! – Hồng Hà cười rạng rỡ – Bài thơ của mày làm tụi Pascal lác mắt!
Hồng Hà không bỏ lỡ cơ hội để đề cao “tụi trường Việt mình”. Nhưng lần này tôi biết nó không cố tình bốc tôi lên mây. Bởi vì ngay lúc đó thằng Đông Anh mon men lại gần tôi:
– Chiều nay mày ghé nhà tao chơi đi!
– Chi vậy?
Đông Anh nói với vẻ trang trọng:
– Tao sẽ giới thiệu mày với gia đình tao.
– Giới thiệu tao? – Tôi chỉ tay vào ngực, mặt ngẩn tò te – Tao có gì đâu mà giới thiệu?
– Sao lại không có gì! – Mặt Đông Anh nghiêm trang – Mày là nhà thơ. Mày là một thiên tài, là Rimbaud của Việt Nam.
Arthur Rimbaud là thiên tài thi ca vĩ đại không chỉ của nước Pháp mà của toàn thế giới. Trong giờ học văn chương Pháp, những bài thơ “Voyelles” và “Fêtes de la faim” của ông khiến tôi ngẩn ngơ thán phục. Tôi không tin ngoài Rimbaud ra, còn ai trên trái đất này có được những ý tưởng dị thường và rạng rỡ như vậy.
Với tôi, Rimbaud luôn luôn là ngôi sao Bắc Đẩu trong vòm trời thi ca nhân loại. Thế mà bây giờ thằng Đông Anh đem một ngọn đèn hạt đỗ lập lòe không biết tắt lúc nào là tôi so sánh với vì sao sáng : Di đó, bảo tôi không sững sờ sao được.
Tôi ngượng nghịu:
– Thôi đi! Mày nói quá!
Đông Anh vẫn khăng khăng:
– Tao nói thật đó. Trong mắt tao, mày là Rimbaud.
Lần này thì tôi không phản đối. Nó nói “trong mắt nó” có nghĩa trong trần gian nhung nhúc sáu tỉ người này, chỉ có nó mới khờ khạo nghĩ thế. Vậy cũng chẳng sao! Tôi nhủ bụng và vui vẻ gật đầu:
– Ừ, chiều nay tao sẽ ghé.
Đông Anh không bịp tôi. Chiều tôi đến nhà nó, nó giới thiệu tôi với ba mẹ nó một cách trân trọng:
– Bạn Khoa học cùng lớp với con. Ba mẹ biết không, Khoa còn là một nhà thơ, thường xuyên in bài trên các báo.
Chỗ này thì Đông Anh bốc phét. Tôi chỉ in thơ có mỗi một lần trên tờ Bạn Trẻ, nó lại ba hoa là “thường xuyên trên các báo”. Nhưng tôi không đính chính, chỉ mỉm cười bẽn lẽn.
Ba của Đông Anh gật gù khen:
– Con còn nhỏ mà đã in thơ trên báo rồi. Giỏi quá!
Đông Anh thừa dịp ca ngợi tôi:
– Bạn Khoa có tài văn chương bẩm sinh đó ba. Khoa làm rédaction bao giờ cũng được thầy Xuân Thu khen nức nở.
Đông Anh làm tôi đỏ mặt, vì ngượng ngùng cũng có, vì sung sướng cũng có.
Để cám ơn nó về những lời khen nó dành cho tôi, tôi lập tức đứng dậy đi theo nó khi nó ngoắt tôi ra trước hiên.
Tôi lại gần Đông Anh:
– Có chuyện gì vậy?
– Có chuyện gì đâu! Ra đây ngồi chơi cho mát!
Hai đứa ngồi trên chiếc ghế xích đu đằng trước nhà.
Đông Anh lôi từ trong túi áo ra hai bịch đậu phộng da cá chia cho mỗi đứa một bịch.
Tôi vừa nhai đậu phộng vừa trầm trồ:
– Nhà mày đẹp quá há?
– Ừ.
– Ba mẹ mày hiền quá há?
– Ừ.
– Mày là con một hở?
– Không. Tao còn một đứa em gái. Nó học lớp mười một.
Đông Anh hí hửng khoe:
– Em tao dễ thương lắm. Người đẹp mà tên cũng đẹp. Tên nó là Đinh Lăng.
Tôi liếc vào trong nhà:
– Em mày ở đằng sau hở?
– Không. Nó đi mua đồ, lát về.
Rồi chừng như sợ tôi không có cơ hội chiêm ngưỡng vẻ đẹp của em gái nó, Đông Anh vỗ vai tôi:
– Mày ngồi chơi thêm một lát đi. Để tao giới thiệu mày với em gái tao.
Đông Anh làm tôi ngạc nhiên quá đỗi. Xưa nay tôi ít thấy đứa nào hồn nhiên như nó. Xưa nay lũ bạn tôi đứa nào cũng sợ bạn bè chọc ghẹo em gái mình, mỗi lần dẫn bạn về nhà là mắt láo liên cảnh giác.
Đông Anh ngược lại. Nó sợ tôi không gặp được em gái nó. Cho nên thấy tôi sốt ruột nhìn ra đường, nó cứ nhấp nha nhấp nhổm. Xem ra nó còn sốt ruột hơn tôi gấp bội.
Cứ chốc chốc nó lại trấn an tôi:
– Em tao sắp về rồi đó.
– Tối đa là năm phút nữa em tao sẽ về tới.
Tôi dán mắt ra đường, vì tò mò hơn là vì háo hức. Trái tim tôi đã thuộc về nàng Stéphanette vô hình vô ảnh trên đường Nguyễn Du. Nàng Đinh Lăng dẫu đẹp như tiên giáng thế vẫn chỉ là người đến sau. Người đến sau hẳn sẽ không có chỗ trong trái tim tôi, dù tôi rất yêu một loài hoa có tên là đinh lăng.
Cuối cùng, Đinh Lăng cũng về tới, tất nhiên không phải sau năm phút như thằng Đông Anh nói mà sau năm mươi phút ngóng chờ đằng đẵng.
Đinh Lăng dắt xe vào trong sân, thấy khách lạ nó cúi đầu lầm lũi bước.
Tôi đinh ninh Đông Anh sẽ kêu em gái lại để giới thiệu hai bên với nhau. Nhưng nó vẫn ngồi trơ, chỉ thì thào:
– Em tao đó. Đẹp không?
Tôi không chờ đợi cái kiểu giới thiệu lén lút như thế. Lại trông có vẻ “đầu trộm đuôi cướp” nữa. Y như hai tên trộm vặt đang rình người có của: “Gã đó. Giàu không?”.
Rimbaud của Việt Nam chẳng lẽ không đáng xuất hiện trước mặt người đẹp Đinh Lăng đường đường chính chính? Nghĩ vậy nên tôi giận dỗi:
– Mày không kêu lại, nó cúi gằm như thế tao có thấy gì đâu!
Tôi nói cho bõ tức. Chứ thật ra dù em gái thằng Đông Anh không ngẩng đầu lên, tôi vẫn thầm công nhận nó là một con nhỏ xinh đẹp. Nước da trắng hồng, dáng đi uyển chuyển, mái tóc óng ả, một người con gái đã hội tụ được ba yếu tố đó thì khuôn mặt chắc chắn phải đẹp.
Đông Anh xoa dịu sự hờn giận trong lòng tôi:
– Em tao nhút nhát lắm. Mó mới trông thấy mày lần đầu, còn mắc cỡ.
Rồi e giải thích như thế vẫn không khiến tôi nguôi ngoai, nó lật đật hứa hẹn:
– Từ từ rồi tao sẽ giới thiệu hai đứa với nhau.
Chữ “hai đứa” làm tôi mát lòng mát dạ. Tôi không còn ấm ức nữa. Mà nhe răng cười:
– Nhớ nhé!
Đông Anh gật đầu.
Và ngày hôm sau vừa gặp tôi trên lớp, nó ngoắt tôi ra trước hành lang, long trọng thông báo:
– Hôm qua lúc mày về rồi, em gái tao hỏi thăm mày tíu tít.
– Nó hỏi sao?
– Nó hỏi mày là ai, quê ở đâu?
– Mày nói sao?
– Còn nói sao nữa! – Đông Anh cuời – Tao nói mày là thằng Khoa quê ở Thăng Bình, học chung lớp với tao.
Tôi tò mò:
– Nó còn hỏi gì nữa không?
– Còn. Nó hỏi mày học giỏi không?
Tôi nín thở:
– Mày trả lời sao?
– Tao bảo mày làm rédaction hay nhất lớp.
Đông Anh làm tôi cảm động quá chừng. Tôi sợ nó khai huỵch toẹt chuyện tôi đứng trơ như phỗng trong giờ vấn đáp. Nhưng nó không đả động gì đến điểm yếu của tôi. Nó đã “xấu che tốt khoe” giùm tôi.
Như để làm tôi cảm động hơn nữa, Đông Anh nói:
– Tao còn khoe mày làm thơ hay tuyệt. Rồi tao đọc bài thơ “Giấc mơ của chàng chăn cừu” cho nó nghe. Nó nghe và nó trầm trồ mãi. Nó bảo chưa bao giờ nó được biết một bài thơ hay như vậy.
Đông Anh nói tới đâu, người tôi lâng lâng tới đó. Tôi làm thơ cho nàng Stéphanette, không ngờ lại khiến nàng Đinh Lăng xao xuyến đến thế.
Nàng Đinh Lăng có lẽ xao xuyến tận tâm can nên sau khi khen thơ tôi, nàng nhờ anh trai nàng năn nỉ tôi làm một bài thơ tặng nàng. Đông Anh bảo tôi như vậy nhưng tôi không tin. Tôi ngẩn ngơ hỏi lại:
– Mày nói thật không đấy?
– Sao lại không thật! – Đông Anh hoa tay – Em gái tao sẽ vô cùng cảm động nếu một ngày nào đó tao cầm về cho nó bài thơ mày làm tặng nó. Nó bảo từ nay trở đi, nó sẽ đợi từng ngày.
Viễn ảnh Đông Anh vẽ ra khiến tôi bâng khuâng quá đỗi. Trong một thoáng, tôi tin tôi là thi sĩ lớn. Tôi đích thị là Rimbaud, nếu không tại sao mới xuất hiện lần đầu đã có người nồng nàn ái mộ.
Tôi nhìn Đông Anh, ngất ngây đáp:
– Được rồi. Đêm nay tao sẽ làm.
Tối đó, tôi gò mình trên trang giấy, tưởng tượng Đinh Lăng là nàng Stéphanette và nắn nót viết những vần thơ tình tứ và sầu muộn:
Tôi là hòn sỏi buồn
Lăn qua cuộc đời bằng những vòng hiu quạnh
Chiều nay chợt biết chỗ dừng chân.

Facebook Google Plus Twitter
Cùng chuyên mục
Kiểu đầu khó lặp lại
Đầu Lâu Báo Oán
Con Nhện
Đoán sai
Thay phần giữa là xong