Tác giả: Nguyễn Nhật Ánh
Tình trạng: Hoàn thành.
Post bởi: HaySo1.Vn
**********************
Chương 1:
Nếu một ngày nào đó, bạn bước vào tuổi mười sáu, lại phải đi trọ học xa nhà, thoát khỏi sự canh gác nghiêm ngặt của ba mẹ bạn, hẳn là bạn cũng được nghe những lời dặn dò kỹ lưỡng và vô vọng của các bậc sinh thành, hệt như trường hợp tôi ngày xưa.
Nhìn chiếc va-li đã được khóa chặt của tôi, mẹ tôi khuyên nhủ bằng một giọng lo lắng chân thành:
– Con ra thành phố ráng lo học, đừng đi chơi lông bông, đừng đua đòi chúng bạn!
Ba tôi cũng nói những lời y hệt mẹ tôi, có vẻ như tối hôm trước hai người cùng soạn chung với nhau những điều răn dành cho tôi. Tuy nhiên, giọng ba tôi nghiêm nghị hơn, có pha một chút đe dọa.
Tôi ngoan ngoãn đứng nghe, đầu gật lia lịa. Vẻ tử tế quá đáng của tôi khiến ba mẹ tôi hài lòng trông thấy. Có lẽ đến giờ phút này, ba mẹ tôi mới nhận ra tôi là một đứa trẻ nết na, dễ bảo mà trước đây vì một lý do nào đó hai người đã không nhìn thấy.
Trong tâm trạng hân hoan tột đỉnh đó, ba tôi ngẫu hứng nói thêm:
– Con cũng nhớ đừng yêu đương nhăng cuội! Còn đang đi học, phải để hết tâm trí vào bài vở, đừng để chuyện tình cảm vớ vẩn làm xao lãng đầu óc nghe chưa!
– Nghe!
Tôi hét lớn, giọng quả quyết. Ba tôi thật buồn cười. Tôi mà thèm vào yêu với đương. Tôi là tôi chúa ghét bọn con gái. Cái bọn về nhà chỉ biết học gạo, đến lớp thì õng a õng ẹo, lúc nào cũng ra vẻ “tiểu thư” thấy mà bắt ngứa con mắt! Suốt những năm học lớp tám, lớp chín, tôi không bao giờ chơi với bọn con gái. Mà bọn chúng hình như cũng chẳng thèm chơi với tôi. Hai bên cứ như chó với mèo, mỗi lần gặp nhau là nhe răng “gừ gừ”.
Tôi cũng không hiểu rõ tại sao tôi lại ghét bọn con gái đến thế. Có thể là do một sự kiện đáng buồn năm lớp bảy. Hồi đó, tôi ngồi ở đầu bàn, gần cửa ra vào. Ngồi kế bên tôi là nhỏ Mỹ Hạnh. Mỹ Hạnh là một con nhỏ láu lỉnh nổi tiếng. Nó là vua phá phách và chọc ghẹo. Suốt năm, nó cà khịa tôi hoài. Nhưng tôi nín nhịn. Dù sao tôi cũng là con trai. Chẳng lẽ tôi đánh nhau với nó. Đánh nó, có thắng cũng chẳng vinh quang gì, còn bị phạt, lại bị tụi bạn chọc cho ê mặt. Nghĩ vậy, tôi gồng mình chịu trận, mặc cho nó làm mưa làm gió.
Nhưng Mỹ Hạnh là một con quỷ. Nó nghĩ ra đủ trò để hại tôi. Còn tôi thì ngu như bò, cứ mắc mưu nó hoài.
Một hôm, sau khi trống đánh vào học, cả lớp đang còn ồn ào trò chuyện thì Mỹ Hạnh bỗng khều tôi:
– Nè, Khoa!
Tôi quay lại:
– Gì vậy?
Mỹ Hạnh chỉ tay ra trước cửa lớp:
– Khoa có thấy sợi dây thun đằng kia không?
Tôi nhướng mắt dòm và gật đầu:
– Thấy! Mà sao?
– Đố Khoa chạy ra nhặt sợi thun đem vào đây!
Tôi lại nhìn ra cửa lớp và rụt cổ:
– Eo ôi, tao không dám đâu!
Lúc đó thầy Luận dạy lớp tôi đang đứng trò chuyện với thầy hiệu trưởng ngay trước cửa. Sợi thun nằm kế bên chân thầy, có cho vàng tôi cũng chẳng dám bỏ chỗ chạy ra nhặt.
Thấy tôi từ chối, Mỹ Hạnh nheo mắt:
– Sao Khoa nhát quá vậy?
Biết nó khích, tôi mặc kệ:
– Ừ, tao vậy đó!
Mỹ Hạnh bĩu môi:
– Con trai gì mà nhát như thỏ đế!
Cái giọng khi dể của nó khiến tôi phát khùng. Tôi nghinh mặt:
– Mày ngon sao mày không chạy ra đi?
Mỹ Hạnh chun mũi:
– Hạnh khác! Hạnh là con gái!
Tôi “xì” một tiếng:
– Mày mà là con gái! Mày là… con quỷ thì có!
Mỹ Hạnh là một đứa có bản lĩnh. Nó phớt lờ sự “xỉ vả” của tôi. Mà dịu dàng nói, giọng ngọt như đường:
– Nếu Khoa chạy ra nhặt được sợi thun, Hạnh cho Khoa cái này!
– Cái gì vậy? – Tôi tò mò.
Mỹ Hạnh thò tay vào cặp. Sau một hồi lục lọi, nó lấy ra một tấm hình lớn bằng hai bao diêm. Tôi ngắm nghía tấm hình vẽ con thỏ trong lòng bàn tay nó, nhún vai nói:
– Tưởng gì! Tấm hình này có gì hay đâu!
– Khoa xem đây nè!
Vừa nói, Mỹ Hạnh vừa từ từ nghiêng bàn tay. Tấm hình chao đi, và con thỏ biến mất. Thay vào đó là một con gấu to tướng, lông xám xịt.
Tôi đang ngẩn ngơ nhìn thì Mỹ Hạnh lật tay lại. Và con thỏ khi nãy lại hiện ra, đột ngột và huyền bí như một phép lạ. Tôi bị tấm hình kỳ ảo kia chinh phục ngay lập tức.
Dòm mặt tôi, biết tôi đang mê tít, Mỹ Hạnh gạ liền:
– Tấm hình đẹp không?
– Đẹp.
– Khoa thích không?
– Thích.
– Vậy Khoa có dám chạy ra nhặt dây thun không?
Câu hỏi của Mỹ Hạnh khiến tôi giật thót. Tôi ngần ngừ nhìn ra cửa. Thầy Luận và thầy hiệu trưởng vẫn còn đứng đó, chạy ra là “chết” liền. Nhưng tấm hình của Mỹ Hạnh quả là tuyệt, nếu bây giờ tôi không chấp nhận lời thách thức của nó thì dễ gì tôi tôi kiếm được một thứ của quý như thế.
– Sao? – Mỹ Hạnh lại giục.
Tôi nhìn tấm hình trên tay nó, liếm môi:
– Mày đưa tao xem tấm hình lại một lần nữa coi!
Mỹ Hạnh tỏ ra rộng rãi. Nó đưa tấm hình cho tôi.
Tôi cầm tấm hình trên tay, lật qua lật lại và thích thú quan sát cảnh con thỏ và con gấu lần lượt đổi chỗ cho nhau.
Trong khi tôi quan sát con thỏ và con gấu thì Mỹ Hạnh im lặng quan sát tôi. Thấy tôi săm soi lâu lắc, nó sốt ruột hắng giọng:
– Trả đây chứ! Làm gì coi hoài vậy!
Tôi đưa trả tấm hình cho Mỹ Hạnh, vẻ tiếc rẻ.
Mỹ Hạnh dòm tôi lom lom:
– Sao? Khoa sẽ chạy ra nhặt sợi dây thun đem vào đây chứ?
Tôi gật đầu:
– Ừ, tao sẽ nhặt.
– Vậy Khoa chạy ra đi!
Tôi nuốt nước bọt:
– Chờ chút xíu! Để tao nghĩ ra cách đã!
Mỹ Hạnh nheo mắt:
– Chờ cho thầy hiệu trưởng đi khỏi hả?
– Không.
Mỹ Hạnh vẫn chưa yên tâm. Nó nói thêm:
– Nếu đợi thầy hiệu trưởng đi khỏi, Khoa mới chạy ra nhặt, Hạnh không đưa tấm hình cho Khoa đâu.
Mặc cho Mỹ Hạnh nhấm nhẳng bên tai, tôi loay hoay nghĩ cách chạy ra nhặt sợi thun sao cho khỏi bị phạt. Nghĩ ngợi một hồi, tôi bỗng sáng mắt lên:
– Tao nghĩ ra rồi!
Rồi không đợi cho Mỹ Hạnh kịp hỏi, tôi hùng hồn khoe:
– Bây giờ tao sẽ ném một cuốn tập ra cửa rồi xin phép chạy ra nhặt. Khi nhặt cuốn tập tao nhặt cả sợi thun.
Mỹ Hạnh tròn mắt nghe tôi trình bày kế hoạch, rồi gật gù:
– Hay đấy!
– Nhưng nếu thầy Luận hỏi tại sao cuốn tập lại văng ra cửa – tôi thận trọng dặn Mỹ Hạnh – tao sẽ nói là tao với mày giành nhau cuốn tập và cuốn tập bị văng ra ngoài. Nếu thầy hỏi mày, mày cũng nói vậy nghe không!
Mỹ Hạnh gật đầu lia:
– Ừ, nếu thầy hỏi Hạnh, Hạnh cũng nói hệt như vậy.
Dàn xếp đâu đó xong xuôi, tôi cầm lấy cuốn tập trên bàn và ném mạnh ra cửa. Cuốn tập bay vù một cái và rớt “xoạch” ngay chân thầy Luận.
Thầy Luận, và cả thầy hiệu trưởng, giật mình cúi nhìn cuốn tập dưới đất và sau đó quay nhìn vào trong lớp như muốn tìm xem chuyện gì đang xảy ra.
Mặc dù đã tính toán sẵn nhưng khi thấy cả hai đồng loạt quay vào và quan sát lớp học bằng ánh mắt nghiêm khắc, đầy đe dọa, tôi bỗng rùng mình sợ hãi. Nhưng lỡ phóng lao đành phải theo lao, tôi liền chậm chạp đứng dậy và rụt rè cất giọng:
– Thưa thầy…
Thầy Luận không đợi tôi nói hết câu. Thầy cắt ngang:
– Cuốn tập này của em hả?
Tôi ấp úng:
– Dạ, của em…
Thầy lại hỏi, giọng nóng nảy:
– Cuốn tập của em sao lại văng ra đây?
Tôi nói, cố trấn tĩnh:
– Thưa thầy, bạn Hạnh muốn mượn cuốn tập của em đ xem lại bài sinh vật hôm qua, em không cho. Hai bên giằng co và thế là cuốn tập… cuốn tập…
Những tiếng cuối cùng tôi nói lúng búng trong miệng và khẽ liếc thầy. Tôi mừng rỡ khi thấy những nếp nhăn trên trán thầy từ từ dãn ra mặc dù mặt thầy vẫn lạnh như tiền. Không hiểu thầy có tin lời giải thích của tôi hay không mà thầy lừ mắt nhìn Mỹ Hạnh:
– Mỹ Hạnh, bạn Khoa nói có đúng không?
Câu hỏi của thầy Luận khiến tôi nở từng khúc ruột. Thầy hỏi đứa khác tôi còn ớn chứ thầy “điều tra” Mỹ Hạnh, coi như tôi thoát nạn. Tôi đã dặn trước Mỹ Hạnh rồi, hẳn nó sẽ trả lời theo kịch bản của tôi.
Tôi không ngờ Mỹ Hạnh lại “phản” tôi. Câu trả lời của nó khiến tôi sửng sốt:
– Thưa thầy, bạn Khoa nói không đúng ạ!
Tôi giật bắn người khi nghe thầy Luận hỏi tiếp:
– Vậy chứ tại sao cuốn tập của bạn Khoa lại văng ra cửa?
Mỹ Hạnh đáp tỉnh bơ:
– Bạn ấy tự ném ra ạ.
– Ném ra? – Thầy Luận ngạc nhiên – Sao lại tự ném ra?
Mỹ Hạnh đúng là một mụ phù thủy. Trong khi tôi bủn rủn cả tay chân thì nó kể tuốt tuồn tuột mọi ý đồ đen tối của tôi. Nó tố cáo tôi bằng một giọng hào hứng và quỉ quyệt khó tin. Mặt thầy Luận mỗi lúc một sa sầm.
Và dĩ nhiên tôi không tránh khỏi đòn trừng phạt của thầy. Ngày thường thầy phạt một thì hôm đó thầy phạt mười. Thầy muốn chứng minh cho thầy hiệu trưởng sự nghiêm khắc của thầy đối với những đứa học trò nghịch như tôi.
Tôi lãnh ba roi vào mông, đau quắn đít. Sau đó, tôi lại phải quì gối trước bảng đen cho mấy chục cặp mắt soi mói châm chọc, nhục ơi là nhục.
Tôi quì cả tiếng đồng hồ, mãi đến giờ ra chơi. Nhưng tôi không thấy mỏi chân, đầu gối cũng chẳng thấy đau. Trong lòng tôi lúc đó chỉ dậy lên một nỗi căm giận khủng khiếp. Tôi thù Mỹ Hạnh đến tận xương tủy. Tôi ao ước mình tài giỏi như Tôn Ngộ Không. Tôi thèm có bảy mươi hai phép biến hóa. Tôi sẽ không ngại ngần biến Mỹ Hạnh thành con rắn, con dơi, con quạ, con chuột, con gián hoặc bất cứ một loài bò sát ti tiện nào đó.
Kể từ hôm đó, tôi “cạch” Mỹ Hạnh, không bao giờ nói chuyện với nó nữa. Tôi cũng “cạch” cả bọn con gái. Bọn chúng là vậy, lúc nào cũng nghĩ đến chuyện hãm hại những đứa con trai cả tin như tôi. Mà nếu không vậy, Thượng đế chả sinh chúng ra làm gì.
Lớn lên một chút, tôi tình cờ đọc được một số câu danh ngôn khủng khiếp về bọn đàn bà, con gái. Tôi càng xa lánh họ. Ngạn ngữ Tây Ban Nha bảo tôi: “Tin người đàn bà bằng lời chẳng khác nào nắm đuôi lươn”. Tôi từng nắm đuôi lươn nên tôi biết. Nó cứ trơn tuột. Ngạn ngữ Ấn Độ “hù” tôi chết khiếp: “Nước làm hỏng rượu, xe bò làm hỏng đường lộ và đàn bà làm hỏng đàn ông”. Tôi chả quan tâm đến rượu và đường lộ, chúng hỏng cứ việc hỏng. Tôi không sợ nước và xe bò. Tôi chỉ sợ tôi hư hỏng. Vì vậy, tôi ghét bọn “tiểu thư”.
Không chỉ có ngạn ngữ, phương ngôn chê bai phụ nữ. Ngạn ngữ thuộc về những người bình dân. Ngay cả những người học rộng cũng chế giễu đàn bà. De Molina xác nhận với tôi: “Làm đàn bà và làm thinh là hai việc trái ngược”. Câu nói y như thánh. Bọn họ là chúa lẻo mép. Mỗi lần cãi nhau với bọn con gái, tôi không bao giờ nói lại. Tôi nói một tiếng, bọn chúng nói mười tiếng. Bọn chúng chuyên át giọng lũ con trai chúng tôi.
Bọn chúng nói nhiều nhưng lại thay đổi ý kiến như chong: Dng, thật chẳng ra làm sao! Racine thấy rõ điều đó. Ông nói: “Họ lơ mơ, họ lưỡng lự, nói tắt một tiếng họ là đàn bà”. Ông Racine giỏi ghê! Hèn gì ông nổi tiếng khắp thế giới. Ông Voltaire cũng lừng danh không thua gì ông Racine. Ông phát biểu xanh dờn: “Thượng đế chỉ tạo ra đàn bà để nhử đàn ông”. Ông Voltaire nói nghe hãi quá. Nhưng tôi phục ông sát đất. Tôi đoán chắc hồi nhỏ ông cũng có một con nhỏ bạn giống hệt như con nhỏ Mỹ Hạnh ngồi kế bên tôi. Và chắc con nhỏ đó nó hành ông tơi tả nên ông mới ghét đàn bà đến thế. Hồi đó, tôi cứ đinh ninh đã “khi dể” phụ nữ như vậy, hẳn ông sẽ không lấy vợ. Sau này tôi mới biết sự thật không giống như tôi nghĩ. Mắc dù thừa biết Thượng đế tạo ra đàn bà để nhử đàn ông, ông cứ để cho vợ ông nhử ông một cách thoải mái. Không ai nhử ông, chắc ông buồn lắm! Tôi cay đắng nhủ thầm và có cảm giác mình bị phản bội, nhưng không vì vậy mà tôi vội xóa những ý tưởng tuyệt vời của ông trong cuốn sổ tay của tôi. Tôi vẫn tin vào sự đúng đắn và sáng suốt của những lời ông nói mặc dù sau đó ông lại tỏ ra ngốc nghếch như một con lừa.
Hẳn nhiên, tôi khác ông Voltaire. Ông nói, còn tôi thì làm. Gặp con gái, mặt tôi lạnh toát, mắt phủ đầy sương mù Luân Đôn. Suốt mấy năm ròng như vậy. Cho đến khi tôi sắp sửa ra thành phố học tiếp lớp mười.
Vì vậy, hôm nay nghe ba tôi dặn tôi chớ yêu đương nhăng cuội, tôi tức cười ghê. Tôi mà thèm yêu bọn con gái. Tôi chưa nuốt sống bọn chúng là còn may.
Dĩ nhiên, đó là về phía tôi. Còn bọn chúng nghĩ sao, ai mà biết được! Rất có thể bọn chúng xúm vào yêu tôi. Rất có thể bọn chúng sẽ gửi thư nặc danh tống tình tôi, hệt như bọn Mafia thường làm. Nhưng dù gì thì gì, tôi mặc xác. Tôi sẽ không thèm đáp lại tình yêu của bất kỳ một cô gái xinh đẹp nào, mặc cho cô ta khóc sướt mướt cả năm ròng. Tôi sẽ không để cho ai làm hỏng tôi, hỡi nước, xe bò và các mụ phù thủy! Tôi là một người đàn ông đã có quá nhiều kinh nghiệm về đàn bà. Năm lớp bảy, chẳng phải con quỷ Mỹ Hạnh đã “nhử” tôi một trận nhớ đời đó sao?
Chương 2:
Năm lớp mười là một năm lành mạnh và sáng sủa. Lòng tôi vô tư và thanh thản. Lớp tôi có khoảng một tá con gái, tôi chẳng thèm để mắt tới đứa nào. Tôi chỉ chơi với toàn bạn trai.
Tôi ở trọ nhà thằng Nghị. Nghị học chung lớp với tôi. Nhưng nó học Anh văn, tôi học Pháp văn. Lớp mười trường tôi không đủ học sinh để chia làm hai lớp. Tất cả bọn tôi đều phải học chung, chỉ có giờ sinh ngữ là học riêng.
Ba mẹ Nghị sống bằng nghề cho thuê phòng trọ và nấu cơm tháng. Nhà nó rộng rãi, lại ít người. Ngoài căn nhà mặt tiền, nơi ba mẹ và hai anh em Nghị ở, gia đình Nghị còn có một ngôi nhà rộng phía sau để cho thuê. Ngôi nhà phía sau nằm lọt giữa một khu vườn nhỏ nhưng đầy bóng mát. Vườn không nhiều cây cối, chỉ vài cây mận, vài cây xoài nhưng những tán xoài quanh năm tỏa bóng, che mát những bụi dạ lý hương rải rác trong vườn. Những năm tôi ở trọ nhà Nghị, đêm đêm ra vườn, hương dạ lý thấm đầy trên tóc, tối lên giường nằm ngủ vẫn còn nghe ngào ngạt.
Cuối vườn là ao cá nhỏ, mặt nước phủ đầy lá sen xanh. Vào mùa hè, bông sen nở đỏ mặt ao, lác đác có vài bông súng tím chen vào giữa, khung cảnh bỗng đẹp lạ lùng. Những lúc ấy, chúng tôi thường mượn máy ảnh, ra ngồi bên bờ ao, thay phiên nhau chụp lia lịa.
“Chúng tôi” ở đây không phải chỉ có tôi và Nghị. Ở trọ chung với tôi những năm cấp ba còn có Ngữ, Hòa lé và “giáo sư” Bá.
Năm đứa chúng tôi cùng học chung một lớp. Bá thuộc phe Pháp văn, giống như tôi. Ngữ và Hòa lé phe Anh văn.
Trong bọn, Ngữ tài hoa nhất. Nó làm thơ hay, viết lưu bút cảm động nổi tiếng. Tôi nghe tụi bạn kể lại hồi cuối năm lớp chín, Ngữ viết lưu bút cho đứa nào là đứa nấy khóc ròng. Đọc những dòng lâm ly của nó, ai cũng nước mắt nước mũi sì sụt. Tiếc là năm ngoái, tôi không học chung với nó, để xem nó viết lưu bút ra sao mà nổi tiếng đến thế. Bây giờ, Ngữ là trưởng ban báo chí của lớp tôi, chủ bút tờ báo tường mỗi tháng ra một lần.
Ngữ là một tay chủ bút khốn kiếp. Bao nhiêu bài vở tôi đưa, nó đều đem vứt sọt rác hết. Nó chẳng thèm đếm xỉa gì đến việc tôi với nó cùng ăn một mâm, cùng ở một nhà.
Tôi vẫn không nản, cứ cặm cụi làm hết bài thơ này đến bài văn khác, nộp cho Ngữ. Thậm chí tôi còn dẫn nó đi uống cà phê để lấy lòng. Ngữ rất khoái uống cà phê. Vì vậy, tôi hy vọng vì khoái cà phê, Ngữ sẽ khoái luôn thơ tôi.
Nhưng Ngữ là một thằng bạn lòng gang dạ sắt. Nó tiếp tục uống cà phê của tôi và tiếp tục liệng bài của tôi đi đâu mất. Biết mình “tài hẹn sức mọn”, tôi không dám kêu ca, chỉ kiên trì sáng tác. Nhưng suốt một thời gian dài, tiền cà phê thì tốn đều đều mà bài vở chẳng được xuất hiện lấy một lần trên báo, tôi đâm nản.
Một hôm, đang ngồi trong quán cà phê, tôi hỏi Ngữ:
– Cà phê có ngon không?
Ngữ gật đầu:
– Ngon.
Tôi liếm môi:
– Ngon sao không thấy mày đăng bài của tao?
Ngữ thản nhiên:
– Cà phê ngon nhưng bài của mày thì… dở.
Ngữ làm tôi sượng trân. Tôi cố vớt vát:
– Những chẳng lẽ mấy chục bài đều dở hết? Cũng có bài… tạm được chứ? Mày đọc kỹ lại đi!
Ngữ nhún vai:
– Tao đã đọc kỹ rồi. Chẳng có bài nào thuộc diện “tạm được”. Dở bằng nhau.
Nhận xét “độc ác” của Ngữ chẳng khác nào gáo nước lạnh tạt vào mặt tôi. Ý chí tôi ướt đẫm. Nhiệt tình sáng tác của tôi tuột xuống dưới 0 độ. Tôi tính đứng dậy đi ra khỏi quán, để mặc cho Ngữ… trả tiền cà phê. Nhưng tay chân đang bủn rủn, tôi đứng dậy không nổi. Rốt cuộc tôi đành phải ngồi lại và cố nén tự ái, “thỉnh giáo” Ngữ:
– Muốn cho hết dở, phải làm sao?
Ngữ gật gù phán:
– Phải học tập người khác. Chẳng hạn, muốn làm văn hay, phải đọc Nguyễn Tuân, muốn làm thơ hay, phải thuộc ca dao, thuộc Nguyễn Bính!
Phán xong, Ngữ liếc tôi:
– Mày đọc Nguyễn Tuân, Nguyễn Bính bao giờ chưa?
Tôi ngượng ngùng thú thật:
– Chưa. Nhưng tao có nghe tên.
Ngữ “hừ” giọng:
– Nghe tên thì chưa ăn thua gì! Phải đọc!
Tôi nuốt nước bọt:
– Nhưng tao có thuộc vài câu ca dao…
Ngữ hất đầu:
– Mày đọc nghe coi!
Tôi hí hửng đọc:
– Mẹ ơi đừng đánh con đau
Để con bắt ốc hái rau mẹ nhờ.
Đọc xong, tôi liếc Ngữ, chờ nó khen. Nhưng Ngữ tỉnh bơ:
– Hai câu đó cũng tàm tạm. Mày còn thuộc câu nào nữa không?
Tôi nhíu mày, cố nhớ lại những câu ca dao hồi nhỏ mẹ tôi ru tôi và sau này tôi đã dùng chúng để ru em. Nghĩ một hồi, tôi sáng mắt lên, hắng giọng đọc:
– Ai về nhắn với nậu nguồn
Mít non gửi xuống, cá chuồn gửi lên.
Tôi ngân nga dứt, thấy Ngữ không nói gì, chắc mẩm nó khoái, tôi cao hứng “xổ” tiếp:
– Lỗi lầm vì cá trích ve
Vì rau muống luộc, vì mè trộn măng.
Lần này thì Ngữ không làm thinh nữa. Tôi vừa ngắt giọng, Ngữ khen liền:
– Rõ ràng là mày có năng khiếu…
Tôi sướng rơn:
– Năng khiếu văn nghệ hả? – Rồi không cầm lòng được, tôi khoe:
– Hôm trước thằng Bá cũng nhận xét tao vậy!
Nhưng Ngữ làm tôi cụt hứng, nó lắc đầu:
– Không phải năng khiếu văn nghệ. Tao muốn nói là mày có năng khiếu… ăn uống! Mày đi mở nhà hàng hợp hơn là làm thơ, viết báo!
Tôi tái mặt. Nhưng tôi không dám sửng cồ với Ngữ. Gây sự với nó, nó giận nó không thèm dìu dắt tôi trên con đường văn nghệ nữa thì khốn. Tôi chỉ biết giở giọng ai oán:
– Tao muốn học hỏi thật mà mày lại cứ chọc quê tao!
Ngữ cười hì hì:
– Ai bảo mày mở miệng ra chỉ toàn là mít non, cá chuồn, cá trích, rau muống… chi! Phải thuộc những câu ca dao trữ tình như vầy nè!
Nói xong, Ngữ kéo cổ áo, sửa bộ, rồi lim dim mắt, đọc:
– Thò tay mà hái cọng ngò
Thương em muốn chết giả đò làm lơ!
Đọc xong, Ngữ mở mắt ra, ngó tôi hỏi:
– Hay không?
– Hay!
Tôi xuýt xoa khen. Ngữ khoái chí, lại… nhắm tịt mắt, ngâm nga:
– Anh về để áo lại đây
Để khuya em đắp gió tây lạnh lùng
Gió lạnh lùng lấy mùn mà đắp
Để áo anh về đi học kẻo trưa.
Lần này, Ngữ chưa kịp mở mắt, tôi đã buột miệng trầm trồ:
– Hay ghê!
Ngữ phổng mũi:
– Đấy! Muốn làm văn nghệ phải thuộc những câu ca dao “ướt át” như vậy. Mày cứ bị ám ảnh bởi cá chuồn, cá trích hoài làm sao làm văn, làm thơ hay được!
Ngữ nói đúng. Những câu ca dao nó đọc nghe mới thắm thiết làm sao! Cả đời tôi chỉ mong ước làm được những câu thơ hay bằng một nửa vậy thôi. Nhưng khổ nỗi, những câu ca dao đặc sắc kia đều liên quan mật thiết đến đề tài tình yêu trong khi tôi lại chẳng màng đến ba chuyện yêu đương vớ vẩn đó. Đối với tôi chả bao giờ có chuyện “thương em muốn chết giả đò làm lơ”. Tôi “ghét em muốn chết” thì có! Gặp bọn con gái là tôi “lơ” thật, “lơ” từ đầu năm đến cuối năm, cần quái gì phải giả đò. Chẳng giả đò, mặt tôi cũng đã lạnh như… đá cục.
Thấy tôi lộ vẻ thẫn thờ, Ngữ hất hàm:
– Sao? Có gì khúc mắc cần hỏi thêm không? Làm gì trầm ngâm hoài vậy?
Tôi tặc lưỡi, ngần ngừ:
– Sao tao thấy làm thơ “ướt át” khó quá!
Ngữ động viên tôi:
– Bước đầu bao giờ chả khó! Ông bà đã nói rồi, “vạn sự khởi đầu nan”. Nhưng mày đừng lo. Chuyện gì cũng vậy, làm hoài sẽ quen. Thơ văn mày hiện nay hơi “khô” nhưng nếu mày chú tâm rèn luyện, nó sẽ “ẩm” dần dần. “Ẩm” một thời gian, nó sẽ chuyển qua… “ướt át”. Đó là quy luật.
Tôi nghe Ngữ giảng giải một hồi, đầu óc càng rối tinh rối mù. “Lý luận văn học” của nó sao nghe na ná như chương trình dự báo thời tiết trên ti vi, khi thì ẩm lúc thì khô, chẳng biết đường nào mà lần.
Dường như đọc được nỗi hoang mang trong mắt tôi, Ngữ gật gù nói thêm:
– Mày cứ tin tao đi. Hồi trước tao cũng vậy. Lúc tao mới tập viết văn, câu nào câu nấy khô queo, tao luyện riết, bây giờ chúng ướt đẫm, hễ đọc là cứ muốn nấc lên.
Tôi biết Ngữ không “hù” tôi. Nó nói thật. Đã bao nhiêu đứa sụt sùi trước những dòng lưu bút lâm ly của nó. Thơ nó cũng vậy. Bài nào bài nấy tình cảm dầm dề như mưa tháng bảy. Tôi không biết nó đã yêu ai bao giờ chưa nhưng thơ nó lúc nào cũng than thở về một mối tình đã… chết, đọc lên thấy thương ghê, thấy cứ muốn dẫn nó đi uống cà phê cho nó đỡ buồn.
Nhưng mặt mạnh của Ngữ chính là điểm yếu của tôi. Tôi đã thề không đội trời chung với bọn con gái. Chẳng lẽ bây giờ tôi bắt chước thằng Ngữ cất giọng khóc than, năn nỉ “kẻ thù” của tôi? Thật là khó xử!
Tôi nhăn nhó nói với Ngữ:
– Vấn đề không phải là “khô” hay “ướt”. Tao nói khó là khó chuyện khác.
Ngữ ngạc nhiên:
– Khó chuyện gì?
Tôi bối rối thú nhận:
– Tao không thích làm thơ tình.
– Thơ tình mà không thích? – Ngữ kêu lên sửng sốt.
– Ừ. Tao không thích.
Ngữ dòm tôi bằng ánh mắt lạ lùng:
– Sao vậy?
Tôi ấp úng đáp:
– Tại tao ghét… bọn con gái.
Ngữ giật bắn người như chạm phải lửa. Nếu không có cái lưng ghế phía sau, có lẽ nó đã lăn quay xuống đất rồi. Sau một hồi trố mắt nhìn tôi như thể nhìn một quái vật, Ngữ vội sờ tay lên trán tôi.
– Mày làm trò gì vậy? – Tôi hỏi, giọng ngơ ngác.
Ngữ khịt mũi:
– Tao xem thử mày có “ấm đầu” không! Toàn thể đàn ông trên thế giới đều thương con gái. Ghét con gái, họa chăng chỉ có người điên.
Tôi cau mặt, hất tay Ngữ ra:
– Tao không điên. Nhưng tao ghét con gái.
Thái độ bướng bỉnh của tôi khiến Ngữ nổi cáu. Nó nghiêm giọng quở trách:
– Mày không được ghét bọn con gái, hiểu chưa! Phải thương tụi nó nhiều vào! Thấy đâu thương đó, thấy ít thương ít, thấy nhiều thương nhiều. Nếu ghét tụi nó, mày nên chọn nghề khác. Nghề uốn tóc chẳng hạn. Tụi nó muốn tóc cúp vô thì mày uốn quăn ra, tụi nó muốn tóc xù thì mày chơi tóc tém, tụi nó khoái tóc dài, mày chơi mốt… ni cô. Còn đã đi theo cái nghiệp văn thơ thì phải thương con gái. Đó là… bổn phận.
Nghe Ngữ “thuyết” một hồi, tôi rụng rời tay chân. Nhưng tôi không dám lên tiếng phản đối, sợ Ngữ điên tiết sổ toẹt mơ ước của tôi. Tôi đành thở dài, “tiếp thu” bằng một giọng yếu ớt:
– Ừ, tao sẽ tập dần dần. Muốn thương tụi nó đâu phải dễ.
Thấy tôi chịu phục thiện, Ngữ có vẻ tươi tỉnh hơn. Nó dịu giọng khuyến khích:
– Không dễ nhưng không phải là không làm được. Ngạn ngữ Pháp có câu: “Vouloir, c’est pouvoir”. Muốn là được. Mày phải bắt chước tao. Con gái lớp mình, đứa nào tao cũng thương hết.
Tôi há hốc mồm:
– Mày thương hết mười hai đứa?
Ngữ gật đầu:
– Ừ, tao thương “trọn bộ”.
Mối tình “khổng lồ” của Ngữ khiến tôi phát rét. Nhưng tôi không khỏi băn khoăn:
– Mày thương nguyên một tá sao tao không biết? Tao có thấy mày làm gì đâu!
Ngữ nhún vai:
– Thì tao đâu có định làm gì! Tao chỉ làm… thơ thôi.
Tôi chớp mắt:
– Thế tụi nó có biết mày thương không?
Ngữ nuốt nước bọt:
– Chắc là không! Tao không nói làm sao tụi nó biết!
Tôi lại thắc mắc:
– Mày thương mà không nói, vậy thương làm gì?
Ngữ nheo mắt nhìn tôi:
– Mày ngốc quá! Tao thương tụi nó là thương chơi thôi, thương để làm thơ. Tao đâu có thương thiệt mà phải nói ra!
Lần đầu tiên trong đời tôi nghe nói đến hai chữ “thương chơi”. Tôi ngẩn ngơ ngó Ngữ:
– Thương để… làm thơ?
Ngữ gục gặc đầu:
– Chứ sao! Đã là văn nghệ sĩ thì không thể yêu theo kiểu phàm phu tục tử được. Tình yêu của tụi mình là tình yêu lặng thầm và cao thượng. Yêu không “tuyên bố” cũng cóc cần đền đáp. Cứ câm nín, ấp ủ, dày vò, tụi mình sẽ có cả khối cảm xúc để viết nên những vần thơ bất hủ. Các nhà thơ lớn xưa nay vậy.
Con đường văn nghệ Ngữ vừa phác họa nghe thật hấp dẫn và xem ra cũng không đến nỗi khó đi lắm. Tưởng yêu “thiệt” theo kiểu “phàm phu tục tử” tôi mới ngán chứ yêu “chơi” theo kiểu “văn nghệ sĩ” thì tôi nhắm sức mình có thể yêu được. Tôi bèn hào hứng nói với Ngữ:
– Nếu vậy tao làm được. Tưởng gì chứ thương “chơi”, thương “để làm thơ” thì đâu có khó!
Thấy tôi không còn đòi ghét con gái nữa, Ngữ khoái chí, tiếp tục vung vít:
– Tình yêu của tụi mình còn có cái khỏe là không sợ bị từ chối, cũng chẳng ai biết mà chọc quê. Hơn nữa, mình có thể yêu tự do, muốn yêu ai thì yêu. Tụi phàm phu tục tử mỗi lần chỉ có thể yêu được một người, yêu hai người là có chuyện, trong khi tụi mình có thể yêu gộp một lúc toàn bộ phụ nữ trên thế giới này cũng được. Vậy là nhất rồi, còn muốn gì nữa!
Nói xong, Ngữ cười tít mắt. Dòm nó, tôi có cảm tưởng như toàn bộ phụ nữ trên thế giới này đang đổ xô thương nó, chứ không phải là ngược lại.
Tôi chẳng tham lam như Ngữ. Tôi chỉ muốn thương in ít thôi, thương những người mà mình biết mặt biết tên hẳn hoi. Suy tính hồi lâu, tôi rụt rè nói:
– Vậy kể từ ngày mai, tao bắt đầu thương hén?
– Ừ. Nhưng mày định thương ai?
Tôi bối rối:
– Thì thương mấy đứa con gái lớp mình! – Rồi tôi bẽn lẽn nói thêm – Tao sẽ thương khoảng… sáu đứa!
Ngữ giật thót:
– Không được! Như vậy thì nhiều quá!
Sự phản đối bất ngờ của Ngữ khiến tôi ngẩn người ra. Rõ ràng mới vừa rồi nó bảo tôi muốn thương ai thì thương, thương bao nhiêu cũng được, vậy mà tôi mới mở miệng đòi thương, nó đã chặn ngang họng rồi. Tôi nhìn Ngữ, thấp thỏm hỏi:
– Có sáu đứa mà… nhiều?
Ngữ tặc lưỡi:
– Đối với mày, như vậy là nhiều! Phải giảm bớt lại!
Tôi khịt mũi:
– Chứ mày thương nguyên cả lớp đó sao! Tao chỉ bằng phân nửa mày chứ mấy!
Thấy tôi có vẻ giận dỗi, Ngữ cười hì hì. Nó vỗ vai tôi, giọng kẻ cả:
– Tao khác, mày khác, sánh sao được mà sánh! Đối với tao, một tá cũng còn ít. Còn đối với kẻ mới “nhập môn” như mày, sáu đứa lại quá nhiều, mày không thể tập trung tư tưởng được. Lúc “đề-pa”, chỉ nên thương một em thôi.
Tôi đực mặt ra:
– Tao chỉ “được” một em thôi sao?
Ngữ gật gù hắng giọng:
– Một và chỉ một mà thôi!
Một khi Ngữ đã khống chế số lượng “người yêu” của tôi bằng một định đề toán học thì tôi biết có năn nỉ cũng bằng thừa. Tôi đành thở dài xuôi xị:
– Thôi một em cũng được!
Sau khi đã chấp nhận số phận hẩm hiu của mình, tôi ngồi nặn óc xem nên “thương” đứa nào trong số mười hai đứa con gái của lớp tôi. Trước nay, tôi chẳng thèm để mắt đến tụi nó, bây giờ phải ngồi nhớ lại từng khuôn mặt, chọn ra một khuôn mặt ít hắc ám nhất để đem lòng “thương”, đối với tôi thật là gian nan trầy trật. Tôi điểm danh trong đầu một vòng, hai vòng rồi ba vòng mà chẳng chọn được “đối tượng” vừa ý. Mười hai đứa, đứa nào tôi cũng… không ưa. Chẳng hiểu sao Ngữ có thể thương không sót một mống, tài thật!
Thấy tôi ngồi đăm chiêu cả buổi, Ngữ hỏi:
– Mày nghĩ ngợi gì vậy?
Tôi lúng túng thú thật:
– Tao đang nghĩ xem nên… thương đứa nào.
– Mày nghĩ ra chưa?
Tôi gãi đầu, ngượng ngập:
– Chưa. Không hiểu sao tao thấy khó quá.
Ngữ nhiệt tình:
– Nếu mày thấy khó thì để tao chọn giùm cho. Người ngoài cuộc bao giờ cũng sáng suốt hơn.
Nghĩ mãi không ra, tự nhiên thấy Ngữ đòi làm “cố vấn”, tôi bằng lòng ngay:
– Ừ, mày chọn giùm tao đi!
Ngữ giỏi giang hơn tôi nhiều. Chỉ một thoáng, nó đã kêu lên:
– Tao nghĩ ra rồi!
Tôi tròn mắt, hồi hộp:
– Đứa nào vậy?
– Em Hồng.
– Trời ơi, con Hồng “chà-và” hả?
Tôi la lên thất thanh và bỗng nghe tai mình ù đi. Suýt một chút nữa tôi đã xỉu ngay trong quán. Tôi tưởng thằng Ngữ nó chọn cho tôi đứa nào chứ nó chọn nhỏ Hồng thì rõ ràng nó “giết” tôi chứ đâu phải “giúp” tôi. Trong mười hai đứa con gái lớp tôi, nhỏ Hồng xếp hạng bét về nhan sắc cũng như về tính tình. Nó tên Hồng nhưng nước da nó chẳng hồng chút nào. Da nó đen thui. Nghe nói ngay từ lúc học lớp sáu, nó đã mang biệt danh Hồng “chà-và” rồi. Đã vậy, nó còn uốn đầu tóc xoăn tít, mỗi lần dòm, tôi cứ rởn cả tóc gáy, tưởng đâu nó là người Việt gốc… Phi châu.
Đó là bề ngoài. Bề trong nó còn đáng chán hơn. Ngồi trong lớp, nó chuyên môn nói chuyện. Cái đầu xoăn tít của nó hết quay trái lại quay phải, không biết nằm yên là gì. Tôi ngồi sau lưng nó, mỗi lần chép bài, tôi phải không ngừng lắc lư cái đầu theo nó mới mong thấy được chữ viết trên bảng. Lần nào cũng vậy, chép xong được bài học, cổ tôi mỏi nhừ.
Nhỏ Hồng còn nổi tiếng chanh chua, đanh đá. Không chỉ tụi con gái, mà ngay cả đám con trai cũng ớn nó ra mặt. Đứa nào vô phúc chọc phải nó, coi như đứa đó… tàn đi. Nó mắng sa sả, nghe không kịp vuốt mặt, nạn nhân chỉ còn có nước ôm đầu lủi vô một xó nào đó, ngồi trốn và chờ cho “tai qua nạn khỏi”. Vì vậy, đứa nào cũng “cạch” nó. Tôi lại càng “cạch”. Nó mà biết tôi “thương” nó, “làm thơ” cho nó, chắc nó vác guốc rượt tôi chạy quanh sân trường.
Vậy mà bây giờ thằng Ngữ lại chơi ác bắt tôi phải thương bà chằn tinh đó. Nó bắt tôi phải ấp ủ, phải dày vò… khổ ơi là khổ!
Tôi nhìn Ngữ, mặt méo xẹo:
– Thôi, tao không “thương” nhỏ Hồng đâu! Mày làm ơn đổi giùm tao em khác đi!
Ngữ phớt lờ sự khiếu nại của tôi. Nó lên giọng:
– Không được! Tình yêu chứ đâu phải hàng hóa mà mày đòi đổi tới đổi lui!
– Nhưng nhỏ Hồng nó… đen thui! – Tôi cố khẩn khoản.
Ngữ vẫn lạnh lùng:
– Đen trắng thì ăn thua gì! Khi đã thương, mày nhìn màu đen thành màu trắng mấy hồi!
Thấy Ngữ không thèm đếm xỉa gì đến nguyện vọng chính đáng của tôi, nó cứ khăng khăng bắt tôi “thương” con Hồng “chà-và”, lòng tôi như thắt lại. Tôi ấm ức nói:
– Mày chỉ “xí gạt” tao! Màu đen làm sao nhìn cho ra… màu trắng được! Tao có cố lắm cũng chỉ nhìn “đen” thành “xám” là cùng!
Ngữ cười ha hả:
– Trời, tao “xí gạt” mày làm gì! Tại mày chưa biết đó thôi, chứ tình yêu nó màu nhiệm ghê lắm. Nó biến cái này thành cái khác như chơi. Mày nghe mấy câu ca dao này bao giờ chưa?
Nói xong, không đợi tôi trả lời, Ngữ đã hùng hồn đọc:
– Lỗ mũi em mười tám gánh lông
Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho
Đêm nằm thì ngáy o o
Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà
Đi chợ thì hay ăn quà
Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm…
Ngữ đọc một lèo, thao thao bất tuyệt. Tôi ngồi dỏng tai nghe, hoang mang và chăm chú.
Đọc dứt câu cuối cùng, Ngữ nhướng mắt dòm tôi:
– Mày hiểu bài ca dao vừa rồi muốn nói gì không?
Không những tôi hiểu bài ca dao muốn nói gì mà tôi còn hiểu thằng Ngữ muốn dẫn tôi đi đâu, vì vậy tôi gật đầu một cách rầu rĩ.
Đúng như tôi nghĩ, Ngữ cười đắc thắng:
– Như vậy là mày chịu thương em Hồng rồi hén?
Biết mình đã sập bẫy, tôi thở dài xuôi xị và kháng cự bằng một giọng yếu ớt:
– Nhưng nhỏ Hồng dữ như chằn. Nó mà biết tao “thương” nó, nó chửi tao tắt bếp.
Vẻ mặt đưa đám của tôi chẳng khiến Ngữ động lòng. Nó quắc mắt:
– Mày chỉ giỏi phịa! Mày không nói, làm sao nó biết được? – Rồi Ngữ bỗng nghiêm giọng – Bây giờ tao hỏi thật, mày có muốn viết được những áng thơ văn bay bướm không?
– Muốn! – Tôi gật đầu như máy.
– Mày có muốn những sáng tác của mày được đăng lên báo tường không? – Ngữ lại hỏi.
Tôi liếm môi:
– Muốn.
Ngữ ranh mãnh:
– Thế mày có muốn thương em Hồng không?
Lần này thì tôi hết đường tránh né. Tôi đành phải nuốt nước bọt, bần thần đáp:
– Muốn.
Ngữ cười toe:
– Khá lắm! Bây giờ tao mới nhận ra là mày có năng khiếu… văn nghệ!
Ngữ khen tôi mà sao tôi chẳng thấy vui. Thấy nó cười, tôi cũng nhe răng cười theo nhưng miệng tôi cười như mếu. Từ khi tôi mở miệng “kết nạp” nhỏ Hồng làm “người yêu”, lòng tôi bỗng nặng như đeo đá. Tôi tưởng như tôi vừa mới “rước vạ” vào mình. Trước đây lòng tôi thanh thản biết bao nhiêu, tự dưng đi nghe lời thằng cha chủ bút hắc ám kia, để bây giờ tôi phải mang nặng bên lòng “nỗi nhớ thương” dù là thương theo kiểu tôi, chỉ có ma mới biết.
Trong khi Ngữ ngồi rung đùi thưởng thức thành quả “dụ dỗ” của nó thì tôi cứ lầm bầm cay đắng và không tiếc lời nguyền rủa “mối tình” vừa chớm nở của mình.
Chương 3:
Phàm ở đời, không phải bao giờ con người ta cũng làm được mọi chuyện theo ý mình. Có những ước mơ cháy bỏng mà cả đời mình không bao giờ đạt tới. Lại có những chuyện mình ngán tới tận cổ mà vẫn phải bấm bụng lăn xả vào. Như “chuyện tình” của tôi chẳng hạn.
Tôi ghét cay ghét đắng nhỏ Hồng – từ hồi buộc phải “yêu” nó, tôi càng thù nó tợn – vậy mà tôi vẫn phải bắt lòng mình thương nhớ nó. Suốt một thời gian dài, tôi nghĩ về nó còn nhiều hơn là nghĩ về mẹ tôi. Theo lời dặn dò của Ngữ, mỗi lần nghĩ đến nhỏ Hồng, tôi phải ráng thổn thức, ráng day dứt để… làm thơ.
Nhưng thơ tôi tắc tị. Kể từ khi đem lòng “yêu” nhỏ Hồng, tôi chẳng còn hứng thú sáng tác nữa. Tôi cố bắt chước người chồng “quáng gà” trong câu ca dao Ngữ đọc. Tôi bắt mình phải tưởng tượng nhỏ Hồng có nước da trắng như… tuyết. Nhưng càng tưởng tượng, tôi càng thấy nước da nó đen thui. Cả mái tóc nó cũng vậy. Tôi nhớ trong văn chương, các nhà thơ thưng hay nói đến tóc mây, tóc huyền, tóc thề… Nhưng khổ nỗi, mái tóc của nhỏ Hồng lại không giống với bất cứ một mái tóc nào như thế. Tôi đã làm mọi cách để hạ tiêu chuẩn thẩm mỹ của mình xuống sát… đất, tôi cố căng mắt tìm xem cái vẻ đẹp ẩn nấp ở chỗ nào trong những lọn tóc xoăn tít kia nhưng tôi không tài nào tìm thấy. Càng nhìn, tôi chỉ càng thấy nó giống… trái chôm chôm.
Sau vài lần thất bại, tôi không thèm tưởng tưởng nữa. Tôi quay sang chửi thầm thằng Ngữ tơi bời. Tưởng nó chỉ dẫn hay ho thế nào, ai ngờ càng “yêu”, tôi lại càng thấy nản. Tôi còn giận Ngữ vì chuyện khác. Ai đi cả lớp chỉ có mười hai đứa con gái thì mười một đứa “kha khá” nó giành nó thương hết. Còn cái đứa trời sinh ra không phải để cho các nhà thơ ca ngợi thì nó “phân phối” cho tôi, nó bắt tôi “ấp ủ” để làm thơ.
Ngữ không biết tôi đang giận nó. Thấy cả tuần tôi không mở miệng, nó tưởng tôi đang tập trung tư tưởng vào chuyện sáng tác. Vì vậy, nó chẳng thắc mắc gì. Mỗi lần đi ngang qua tôi, nó chỉ mỉm cười vỗ vai tỏ ý khuyến khích. Những lúc ấy, Ngữ cười cứ việc cười, mặt tôi vẫn hầm hầm. Nhưng Ngữ chẳng hề bận lòng về thái độ cáu kỉnh của tôi. Chắc nó tưởng tôi đang tập tành “đau khổ” nên mặt tôi mới “sưng” lên như thế.
Chỉ đến khi tờ báo tường tháng đó sắp ra mà chẳng thấy tôi gởi bài như mọi lần, Ngữ mới ngạc nhiên. Nó lân la lại gần tôi, hỏi:
– Mày đã sáng tác được bài nào chưa?
Tôi mím môi:
– Chưa.
Ngữ trố mắt:
– Ủa, sao lâu vậy? Mấy hôm nay tao thấy mày “đau khổ” lắm mà. Đau khổ bao giờ cũng là chất liệu của văn chương. Nó tạo nên…
Tôi cay cú ngắt ngang li thuyết giảng của Ngữ:
– Nhưng mà tao đau khổ vì chuyện khác.
– Chuyện gì?
Tôi nói, giọng ganh tị:
– Chuyện mày giành mày thương hết mấy đứa sáng láng, mày chừa lại cái “cột nhà cháy” mày bắt tao thương…
Ngữ cười hì hì:
– Trời ơi, thương chơi chớ có phải thương thiệt đâu mà mày so bì!
Tôi quạu quọ:
– Thương chơi tao cũng không thương nổi. Tao nghe lời mày, tối nằm ráng tưởng tượng nước da nhỏ Hồng trắng tinh như tờ giấy…
Ngữ cắt ngang lời tôi, giọng nén cười:
– Mày thấy nó có giống tờ giấy không?
Tôi giận dỗi:
– Có. Giống hệt tờ giấy… các-bon.
Trong khi tôi mặt nhăn mày nhó thì Ngữ ôm bụng cười bò. Lát sau, nó quệt nước mắt, chậm rãi nói:
– Vấn đề không phải ở chỗ con Hồng “chà-và”. Đẹp xấu không đóng vai trò gì ở đây. Trái lại, tình yêu càng “ngang trái”, càng “khập khiễng” càng sinh ra lắm tứ thơ. Tất cả chỉ do mày thôi. Tự cổ chí kim, không một nhà văn, nhà thơ lớn nào lại leo lên giường nằm trùm mền tìm cảm hứng. Cảm hứng sáng tác nằm chỗ khác. Nó nằm ở ngoài thiên nhiên. Mày phải đi ra sau vườn, đi ra ngồi ngoài bờ ao, mắt ngắm cỏ cây, tai nghe chim hót, ban ngày đợi chiều xuống, buổi tối đợi trăng lên. Lúc ấy, nghĩ về em Hồng mày sẽ thấy nước da em không còn giống giấy các-bon nữa mà giống giấy pơ-luya chính hiệu, mày sẽ nhớ em da diết, rồi tứ thơ tự dưng cuồn cuộn đổ về như thác lũ, muốn ngăn cản cũng không được. Rồi mày sẽ viết ra, rồi tao sẽ đăng lên báo tường của lớp. Rồi cứ theo cái đà đó, chẳng mấy chốc mày sẽ trở thành một nhà thơ nổi tiếng không kém gì Nguyễn Du.
Ngữ nói tràng giang đại hải. Nói xong, nó cười toe. Trong khi đó, tôi đực mặt ra nghe những lời ngọt như mía lùi của nó. Tôi không biết tôi có bắt chước Nguyễn Du được tí ti ông cụ nào không, chứ khi khuyên tôi rõ ràng thằng Ngữ bắt chước y hệt cái giọng của Nguyễn Bỉnh Khiêm vịnh cảnh nhàn “thu ăn măng trúc, đông ăn giá, xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”. Nó còn xúi tôi noi gương lối sống của các cụ ngày xưa, kiểu như “khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên”. Tôi nghe nó nói, trong bụng nửa tin nửa ngờ, cứ nghi nó chơi xỏ tôi. Chỉ khi nghe đến những câu cuối cùng, tôi mới thôi ngờ vực. Ngữ hứa hẹn sẽ đăng bài của tôi khiến tôi mừng rơn. Lòng tôi bỗng chốc quên hết giận hờn.
Tôi nhìn Ngữ, bâng khuâng hỏi:
– Ngày mai tao sẽ đi.
– Đi đâu?
Tôi tặc lưỡi:
– Thì như mày nói đó. Tao đi ra… sau vườn.
Ngữ gật gù:
– Ừ, mày đi đi. Đó là vương quốc của các nhà thơ. Nguyễn Du trước đây cũng từng ra sau vườn ngồi viết truyện Kiều. Nguyễn Bính cũng vậy. Không ngồi hàng buổi sau vườn, sức mấy ông viết được câu thơ “Hoa chanh nở giữa vườn chanh, thầy u mình với chúng mình chân quê…”. Nếu nằm trùm mền trên giường như mày làm sao ông biết được hoa chanh nở giữa vườn chanh. Ông sẽ tưởng hoa chanh nở giữa vườn ổi ấy chứ!
Ngữ bắt đầu bông phèng. Nhưng tôi không cười. Tôi đang nghĩ một cách nghiêm túc đến con đường sáng tác của tôi. Tôi sẽ làm theo lời mách nước của Ngữ.
Buổi chiều, tôi lò dò ra vườn. Vườn nhà Nghị chẳng có cây chanh nào để tôi có thể tưởng tượng mình là Nguyễn Bính. Vườn nó chỉ trồng toàn xoài và mận. Tôi nghển cổ nhìn lên tán lá rậm rạp, xem thử có tứ thơ nào nằm trên đó không. Nhưng tôi chẳng thấy gì, ngoài những trái xoài xanh treo lủng lẳng. Tôi ngắm nghía mấy trái xoài một hồi, chẳng có một ý thơ hay ho nào nảy ra trong đầu, chỉ có nước miếng ứa ra đầy miệng. Đã mấy lần tôi muốn dẹp quách chuyện văn chương thơ thẩn để bám cây trèo lên hái xoài xuống chấm nước mắm đường ăn chơi. Nhưng cuối cùng tôi dằn lòng được. Chiều nay tôi bấm bụng đi tới đi lui muốn rụng cẳng trong vườn đâu phải để cho cái “năng khiếu ăn uống” nó đè bẹp cái “năng khiếu văn nghệ” vừa mới nhú mầm trong tôi. Hơn nữa, thằng Ngữ mà biết được, nó sẽ chẳng thèm hướng dẫn tôi làm thơ viết văn nữa. Nó sẽ không thèm đăng bài của tôi. Nó sẽ bảo tôi đi mở… quán cơm bình dân. Lúc đó, tôi chỉ có nước độn thổ.
Để khỏi bị những trái xoài kia quyến rũ, phần khác do ngước lâu mỏi cổ, tôi cúi nhìn xuống đất. Tôi hy vọng nếu không tìm thấy những tứ thơ ở trên cao thì tôi có thể tìm thấy chúng nấp đâu đó trong những bụi cỏ. Tôi đi loanh quanh trong vườn. Tôi sục sạo tận các hàng rào.
Tôi đá chân vào các bụi cỏ. Nhưng chẳng có tứ thơ nào nấp trong đó. Chỉ có châu chấu cào cào ở trỏng, chúng bay ra từng đàn.
Thằng Bá ra sau vườn đi tiu, thấy tôi cắm đầu chạy loăng quăng từ đầu này đến đầu kia hàng rào, liền ngẩn người ra:
– Mày làm rớt tiền hả?
Tôi giật mình ngoảnh lại. Thấy Bá đang đứng nhìn thao láo, tôi đỏ mặt lúng túng:
– Không… không…
Bá ngạc nhiên:
– Chứ mày tìm cái gì dưới đất vậy?
Chẳng lẽ nói là tôi đang tìm… ý thơ, tôi đành ấp úng phịa:
– À… tao đang bắt… cào cào.
– Bắt cào cào chi vậy?
– Làm mồi câu chớ chi!
Bá nhìn tôi bằng ánh mắt nghi hoặc:
– Sao khi nãy tao thấy cào cào bay ra cả bầy, mày đâu có bắt.
Thằng Bá này tinh mắt còn hơn cú mèo. Câu hỏi cắc cớ của nó khiến tôi chết sững. Phải ba mươi giây sau, tôi mới tìm ra câu trả lời lấp liếm:
– Tao bắt cào cào lớn kìa! Khi nãy toàn là cào cào con, tao đâu thèm bắt!
Lý do tôi đưa ra thật tuyệt. Bá hết thắc mắc ngay. Nó lò mò lại gần tôi, hăng hái nói:
– Nếu vậy, để tao bắt phụ với mày. Xong, hai đứa mình đi câu.
Bá làm tôi cụt hứng. Nhưng chẳng lẽ tôi đuổi nó đi. Tôi đành phải cặp kè đi tới đi lui với nó. Bá không biết tôi đang thở vắn than dài trong bụng. Nó bắt cào cào một cách nhiệt tình. Nó bắt, chẳng lẽ tôi đứng coi. Thế là tôi cũng phải nhào lăn ra trên cỏ, chụp lấy chụp để. Rốt cuộc, buổi tập làm thơ của tôi biến thành một buổi tập… bắt cào cào. Và tôi buồn bã nhận ra bắt cào cào dễ hơn làm thơ nhiều, mặc dù sau khi bắt đầy một túi cào cào, hai đầu gối và hai cùi tay tôi lấm lem đất cát.
Buổi chiều u ám đó vẫn chưa chấm dứt đối với tôi. Bắt cào cào xong, tôi lại phải theo thằng Bá ra ngồi câu cá ngoài bờ ao. Tôi giống như người lỡ leo lên lưng cọp, đành nhắm tịt mắt cho nó muốn đưa đi đâu thì đưa, chứ đâu có gan nhảy xuống nửa chừng.
Trong khi tôi rầu thúi ruột thì Bá mặt mày tươi hơn hớn. Nó hí hửng giựt lia lịa, hết con cá này đến con cá khác. Thấy tôi trầm tư như Lã Vọng, ngồi cả buổi chẳng câu được con cá nào, nó chép miệng động viên:
– Ráng lên đi chứ! Bắt chước tao đây nè!
Vừa nói, Bá vừa giựt cần câu đánh “vút” một cái. Tôi ngó lên, thấy một con cá rô đang vùng vẫy ở đầu sợi cước.
Thật ra, tài nghệ câu cá của tôi đâu có kém gì Bá. Mọi bữa tôi cũng giựt lia giựt lịa. Cá dưới ao thằng Nghị là cá nuôi, chúng bơi dày mặt nước, thả mồi xuống là chúng tranh nhau đớp, câu tụi chúng còn dễ hơn là ra mua ngoài chợ.
Nhưng từ nãy đến giờ, mặc cho tụi cá rỉa mồi, tôi không buồn giựt. Tôi lơ đãng ngắm cái phao điên điển của tôi đang bị tụi cá kéo chạy qua chạy lại vùn vụt trên mặt nước như chiếc ca-nô máy, lòng bâng khuâng nghĩ đến nhỏ Hồng.
Ngữ đã dặn tôi, cứ chiều chiều ra ngồi ngoài bờ ao nghĩ đến nhỏ Hồng, sẽ thấy da nó trắng như giấy pơ-luya, sẽ bồn chồn thương nhớ nó và sẽ viết được những câu thơ tràn đầy cảm xúc. Ngữ còn bảo tôi, người xưa cũng hay ra đứng bên bờ ao để sáng tác. Họ còn ra ban đêm nữa kia. Thấy tôi tỏ vẻ không tin, Ngữ liền đọc ca dao minh họa: “Đêm đêm ra đứng bờ ao. Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ…”. Nghe xong, tôi hết ngờ vực ngay. Và tôi phục “người xưa” sát đất. Họ đứng suốt đêm bên bờ ao để làm thơ mà không sợ mỏi chân. Cũng không sợ muỗi cắn. Hèn gì họ làm thơ hay ghê!
Tôi chẳng được như họ. Ban đêm tôi không dám lần mò ra bờ ao. Tôi sợ rắn cắn. Tôi chỉ dám ra buổi chiều. Tôi cũng không thèm đứng. Tôi ngồi bệt xuống trên cỏ, khỏi sợ mỏi chân. Và tôi chẳng thấy tứ thơ nào lảng vảng trong đầu như lời Ngữ nói cả. Cứ nghĩ đến nhỏ Hồng là tôi hết muốn làm thơ. Tôi chỉ muốn suỵt chó cắn nó.
Bá chẳng hiểu tâm sự của tôi. Thấy tôi ngồi hóa đá, nó chép miệng nói:
– Nay câu không được thì mai câu! Làm gì buồn xo vậy!
Tự nhiên tôi thấy ghét Bá quá thể. Thất bại của tôi một phần là do nó. Tôi đang bắt chước Nguyễn Bính đi tha thẩn trong vườn và sắp sửa làm được thơ tới nơi thì đột ngột nó nhảy ra phá đám. Bây giờ ngồi bên bờ ao, nó vừa câu cá vừa ba hoa luôn miệng khiến tôi không tài nào tập trung sáng tác được.
Tôi tức Bá anh ách nhưng chẳng tìm được lý do để gây sự với nó. Tính Bá xưa nay vậy. Chính cái tật huênh hoang của nó cộng với cặp kiếng cận dày cộm lúc nào cũng ngồi chồm chỗm trên sống mũi khiến nó được bạn bè phong tước “giáo sư”. Tụi bạn gọi Bá là “giáo sư” là gọi chọc quê, nhưng Bá chẳng “quê” chút xíu nào. Thậm chí nó còn tỏ ra tâm đắc cái biệt danh oai vệ đó. Từ ngày được phong “giáo sư”, nó càng ba hoa khủng khiếp.
Dù sao thì trong năm đứa, tôi với Bá vẫn chơi thân với nhau hơn. Hai đứa chúng tôi cùng phe Pháp văn. Mỗi lần có đụng độ, y như rằng Ngữ, Nghị và Hòa lé cùng đứng về một phía, tôi với Bá một phía. Phe Pháp văn ít người hơn, hai chống ba, nên càng đoàn kết tợn. Những lúc đó, cái thói ăn nói vung vít của Bá trở thành vũ khí lợi hại khôn lường. Nó cứ mồm năm miệng mười, tụi Anh văn bị át giọng, chỉ có nước đỏ mặt tía tai ngồi thở dốc.
Nhưng chiều nay, cái tinh thần đoàn kết đó chẳng giúp ích được gì cho “sự nghiệp văn chương” của tôi. Trong khi tôi đang cần yên tĩnh thì Bá cứ lẽo đẽo bên cạnh khiến tôi chẳng “mơ mộng” gì được.
Chiều hôm sau, tôi lẻn ra bờ ao ngồi một mình. Bá nằm cạnh tôi, đọc sách xong, nó ngủ khò. Nếu thức, hẳn nó sẽ đòi đi theo tôi cho bằng được.
Tôi ngồi co ro trên bãi cỏ, đợi chiều xuống. Nhưng chiều còn mải chơi tít trên cao, tôi đợi cả buổi, nó mới nhích xuống có một chút. Chẳng biết làm gì cho đỡ sốt ruột, tôi nhìn xuống ao, xem cá có lặn như trong ca dao không.
Mấy con cá trong ao nhà thằng Nghị là cá quỷ. Thấy tôi ngồi buồn thỉu buồn thiu, chúng kéo cả bầy thò đầu lên mặt nước lỏ mắt dòm tôi. Chúng có vẻ thắc mắc sao tôi ngồi đó làm gì mà không chịu câu chúng cho vui.
Bộ tịch của bọn cá trông bắt ngứa con mắt. Tôi định nhặt mấy hòn sỏi trên bờ ném cho chúng bể đầu chơi nhưng nghĩ đi nghĩ lại, tôi bèn thôi. Tôi phải giữ lòng tĩnh lặng để lát nữa đón nàng… thơ. Nàng sẽ nương theo nắng chiều mà đến cùng tôi. Nếu nàng bắt gặp tôi đang hì hục đánh nhau với bọn cá, hẳn nàng sẽ chạy dài, không hẹn ngày trở lại.
Dặn lòng như vậy, tôi không thèm dòm xuống ao nữa. Mặc kệ bọn cá. Chúng muốn giễu tôi cứ việc giễu. Tôi bân khuâng nhìn lên những cụm mây lờ lững, xem nàng thơ của tôi sắp đến chưa.
Nhưng nàng thơ chưa kịp đến thì thằng Bá yêu tinh kia đã đến trước. Nó đứng lấp ló sau gốc mận cuối vườn và thò đầu ra kêu tôi:
– Ê!
Tôi giật bắn người và lập tức quay phắt người lại. Thấy cặp kiếng cận thò ra sau gốc cây, tôi lặng người đi, không nói được một lời.
Bá cười hì hì:
– Mày ngồi làm gì vậy?
– Tao đợi! – Tôi chán nản buột miệng – Còn mày ra đây chi vậy?
– Tao ra chơi với mày! – Bá khịt mũi, thắc mắc – Mày đợi ai ngoài này vậy?
– Tao đâu có đợi… ai…
Bá ngạc nhiên:
– Chứ sao mày bảo là mày đợi?
Túng thế, tôi đành ngần ngừ thú thật:
– Tao đợi… chiều xuống.
– Đợi chiều xuống? – Bá trố mắt – Đợi chiều xuống để làm gì? Mày làm như thể mày là nhà thơ không bằng!
Bá nói chơi mà trúng phóc. Tôi nhận luôn:
– Thì tao đang đợi chiều xuống để… làm thơ chứ chi! – Rồi tôi vội vã nói thêm – Thằng Ngữ bày tao vậy!
Tôi tưởng đem Ngữ ra “hù”, Bá sẽ nể mặt Ngữ mà không chế giễu tôi. Nào ngờ nghe tôi nói xong, Bá cười hô hố:
– Trời ơi, nghe ai không nghe mày lại đi nghe lời thằng Ngữ! Muốn làm thơ thì ngồi vô bàn lấy giấy viết ra làm chứ ra đây ngồi chi cho muỗi cắn!
– Thằng Ngữ nó bảo muốn làm thơ phải ra ngồi ngoài bờ ao! – Tôi giải thích, giọng không được tự tin lắm – Nó bảo ngồi ngoài ao mới tưởng tượng đến… người yêu được!
– Người yêu? – Bá há hốc miệng – Mày mà cũng có người yêu?
Tôi gật đầu, vẻ sượng sùng.
– Đứa nào vậy? – Bá hỏi tiếp.
Tôi đáp lấp lửng:
– Một đứa trong lớp mình.
Bá có vẻ bàng hoàng truớc sự tiết lộ của tôi. Nó nhìn tôi lom lom:
– Lớp mình, nhưng mà đứa nào?
Điệu bộ nóng nảy của Bá chứng tỏ nó muốn truy đến nơi. Biết không thể giấu nó được, tôi ngó lơ chỗ khác, ngượng ngùng đáp:
– Nhỏ Hồng.
Bá có vẻ không tin vào tai mình. Nó kêu lên sửng sốt:
– Trời ơi, con Hồng “chà-và”? Bộ hết người rồi sao mày lại đi yêu bà chằn đó?
Bá làm tôi xấu hổ chín người. Trong khi tôi đang ấp úng, nó lại “phang” tiếp:
– Thằng Hòa lé đi yêu con nhỏ Hồng thì còn hiểu được. Còn mày thì khác. Mắt mày đâu có lé!
Tôi đỏ mặt và phản ứng một cách yếu ớt:
– Nhưng đây đâu phải là yêu thiệt. Tao chỉ yêu chơi thôi. Yêu để có cảm hứng mà làm thơ.
Tôi nói đúng bài bản Ngữ dạy. Bá biết ngay. Nó bĩu môi:
– Mày lại ăn phải bã của thằng Ngữ. Nó gạt mày đó. Ai chứ con Hồng “chà-và”, mỗi lần nghĩ đến nó chỉ muốn cãi lộn chứ sức mấy mà muốn làm thơ.
Bá làm tôi chết trân. Nó ăn nói bạt mạng cô hồn nhưng không phải nó nói bậy. Nó nói trúng phóc tâm sự éo le của tôi. Vì vậy, tôi xụi lơ, hết ham cãi nhau với nó. Thấy tôi làm thinh chịu trận, Bá càng ra sức khua môi múa mép. Tôi nghe muốn nhức cả đầu.
Nhưng Bá không dừng lại ở đó. Đến tối, ngồi vào bàn ăn, Bá hấp háy mắt, cười cười thông báo:
– Tụi mày biết không, thằng Khoa hổm rày đang tương tư mê mệt một em trong lớp mình!
Trong khi tôi chết điếng người thì tụi kia nhao nhao.
– Chà, tin sốt dẻo! Cục đá đã bắt đầu động đậy! Chắc chiều nay trời mưa! – Nghị gật gù phát biểu.
Còn thằng Hòa thì trợn đôi mắt lé, nhăn nhở hát:
– Ngày nào cho tôi biết, biết yêu em rồi, tôi biết tương tư… ư… ư…
Trong bọn, chỉ có Ngữ là ngồi im. Chắc nó đang lo thằng Bá tấn công.
Hát dứt câu, Hòa quay sang dòm tôi:
– Bật mí cho anh em biết đi Khoa? Em nào mà có diễm phúc như vậy?
Nghị hùa theo:
– Đúng rồi đó! Trút bầu tâm sự ra đi, có gì anh em mỗi người giúp một tay! Nếu mày giấu giấu giếm giếm, tụi tao lỡ yêu nhằm người yêu của mày thì mày ráng chịu à nghen!
Tôi dở cười dở khóc. Tự dưng lâm vào tình huống trớ trêu này, tôi giống như người mắc xương ngang cổ, nhả không được mà nuốt cũng không xong. Chẳng thà yêu thiệt, yêu theo kiểu… phàm phu tục tử, tôi sẵn sàng cúi đầu nhận tội. Bạn bè có châm chọc, cũng chỉ châm chọc một lần. Rồi mọi chuyện sẽ qua. Đằng này thằng Ngữ xúi tôi “yêu chơi”, có tiếng mà không có miếng, bây giờ tự dưng đưa đầu chịu báng, thật là oan ức. Hơn nữa, yêu ai không yêu, tôi lại khờ khạo nghe lời xúi bậy của thằng Ngữ, nhắm mắt đi “yêu” nhỏ Hồng, tụi thằng Nghị, thằng Hòa biết được, chắc chúng chọc tôi méo mặt.
Vẻ hoang mang lo lắng của tôi chẳng khiến Bá động lòng tí ti nào. Nó bô bô:
– Thằng Khoa thẹn thùng, không mở miệng nổi. Nó nhờ tao nói giùm với anh em là hiện nay nó đang yêu say đắm… – Nói tới đây, Bá cố ý ngừng lại một chút để tăng thêm phần hồi hộp cho người nghe rồi mới trịnh trọng giới thiệu nhân vật -… em Hồng “chà-và”!
Tên tuổi của “người yêu” tôi quả là có sức chấn động khủng khiếp. Bá ném cái tên đó ra giữa bàn ăn y như thể ném một quả bom.
Thằng Nghị giật nảy người, đôi đũa đang cầm trên tay rơi xuống đất. Còn thằng Hòa vừa mới và cơm chưa kịp nhai, bỗng phì cười, cơm bắn ra đầy bàn khiến thằng Ngữ cau mặt cự nự:
– Mày làm cái trò gớm ghiếc gì vậy?
Hòa chẳng buồn để ý đến vẻ gắt gỏng của Ngữ. Nó đưa tay lên bụm miệng và nhìn tôi, nói qua kẽ tay:
– Khoa ơi, kể từ nay tao xin bái mày làm sư phụ. Mưu kế của mày còn hơn Khổng Minh một bậc. Mày lựa em Hồng “chà-và” mày yêu để tối tối dắt đi chơi không sợ ai phát hiện. Ban đêm mày đứng bên cạnh em, người ta cũng tưởng mày đứng một mình. Thật tao chưa thấy ai khôn như mày!
Không phải chỉ có Hòa xỏ xiên tôi. Sau khi cuối xuống nhặt đôi đũa dưới chân, Nghị ngồi thẳng người lên và nheo mắt ngó tôi, miệng xuýt xoa:
– Mày đúng là gan cùng mình! Trên cõi đời này, có lẽ chỉ có mình mày là dám nhào vô bà chằn lửa đó. Mày về với nó, mỗi ngày nó túm tóc mày ba lần nó quay như quay dế, mày chịu làm sao thấu, Khoa ơi!
Tôi chết ngồi trên ghế, mặt mày tái ngắt. Mãi một lúc sau, tôi mới lắp bắp được vài tiếng:
– Có phải tao yêu… thiệt đâu! Tao chỉ yêu chơi thôi!
– Ha ha! Yêu chơi! Lần đầu tao mới được nghe cái từ rùng rợn này! Mày tưởng tụi tao là con nít hả Khoa?
Hòa vừa nói vừa ngả người vào lưng ghế, cười sằng sặc.
Tôi nói thật nhưng coi bộ Hòa và Nghị không tin. Cực chẳng đã, tôi phải lôi Ngữ ra làm chứng:
– Không tin, tụi mày hỏi thằng Ngữ coi! Chính nó bày tao như vậy! Nó bảo tao yêu nhỏ Hồng để có hứng làm thơ cho nó đăng báo.
Hòa lập tức ngưng cười. Nó trố mắt dòm tôi:
– Ủa, vậy hóa ra mày yêu theo chỉ đạo hả? Thôi thế thì chết mày rồi! Mày đúng là Tam Tạng bị ma vương quỷ sứ dụ dỗ rồi, Khoa ơi! Trời phú cho mày trái tim băng giá, mày tu hành sắp thành chánh quả rồi, bây giờ còn nghe lời thằng Ngữ đắm say nữ sắc làm chi! Mà phải em Hồng đẹp đẽ gì cho cam, mặt mũi em ngang Chung Vô Diệm, thân hình em tựa Mẫu Dạ Xoa, thằng Ngữ đi ngang không thèm nhìn, nó ghét mày nó bắt mày yêu cho bỏ ghét. Mày ham được đăng thơ lên báo, nhắm mắt yêu càn, đáng đời mày, Khoa ơi là Khoa!
Hòa vốn mê đọc truyện Tàu. Sáng ngày hôm sau thi học kỳ, tối hôm trước nó vẫn còn nằm ôm mấy bộ Tam Quốc, Thủy Hử “luyện” riết. Cũng nhờ như vậy mà những tối trời mưa, chẳng đi chơi đâu, mấy anh em nằm quấn chăn trên giường nghe nó kể chuyện Tào Tháo, Trương Lương cũng đỡ buồn. Nhưng bữa nay tôi chẳng còn phục tài kể chuyện của nó nữa. Nó lôi mấy nhân vật trong sách ra trêu tôi khiến tôi ngượng chín người.
Trong khi tôi ngồi sượng trân thì Bá chĩa mũi dùi sang Ngữ. Nó hấp háy mắt:
– Trăm sự cũng tại thằng Ngữ mà ra! Nó ỷ nó làm chủ bút, nó muốn bắt người ta yêu ai thì yêu. Nó giành hết những em xinh xắn trắng trẻo, những em chẳng ra gì thì nó ép nó “gả” cho “cộng tác viên”. Tao phải méc cô Tần chủ nhiệm mới được!
Ngữ khịt mũi, nhấm nhẳng:
– Cho mày méc! Đây là chuyện “nghề nghiệp” giữa tao và thằng Khoa, không can gì đến tụi mày! Tụi mày cóc biết văn chương nghệ thuật là gì mà cứ đòi xía vào!
Bá trợn mắt:
– A, cái thằng này khi người dữ ta! Chuyện làm thơ viết văn có thể tao thua mày, chứ chuyện yêu iếc chưa chắc ai hơn ai à! Ít ra, tao cũng hơn mày là tao không xúi thằng Khoa yêu bậy!
Ngữ nhún vai:
– Tao không xúi. Tao chỉ gợi ý vậy thôi, nó muốn yêu thì nó yêu.
Nghe Ngữ nói, tôi biết nó có ý muốn “chạy làng”. Thấy bạn bè châm chích quá, lại nghe Bá đòi méc cô Tần, Ngữ bắt đầu hoảng. Tôi đành phải lên tiếng “chạy tội” cho Ngữ:
– Đúng là thằng Ngữ không xúi. Nó chỉ… đề nghị thôi! Nhưng mà tao nào đã yêu nhỏ Hồng đâu. Tao chỉ mới… nghĩ về nó thôi.
Nghị nheo mắt ngó tôi:
– Bộ mày tưởng cái tội “nghĩ về” nhẹ hơn tội “yêu” hả? Được rồi, tao sẽ thông báo cho em Hồng biết là mày lúc nào cũng “nghĩ về” em, xem thử ý kiến em ra sao.
Mặc dù biết Nghị nói chơi nhưng nghe nó dọa, tôi bỗng thấy lạnh gáy. Nhỏ Hồng mà biết tôi dám cả gan “nghĩ về” nó, chẳng biết nó sẽ “nghĩ về” tôi như thế nào. Biết đâu nó chẳng nhai xương tôi!
Hòa kết thúc buổi thảo luận chuyên đề về mối tình ngang trái của tôi bằng cách gân cổ rống:
– Thôi là hết chia ly từ đây, tình duyên mình chỉ bấy nhiêu thôi…
Hòa hát hay nhất lớp. Giọng nó ấm và mượt mà, rất truyền cảm. Nhưng bài hát mà nó đang hát để giễu tôi lúc này đúng là truyền cảm… cúm!