*
* *
Nỗi ấm ức dai dẳng bám theo tôi đến tận giờ toán. Đến đây xảy ra thêm một chuyện khác.
Thầy Đức ra một bài tập về phân tích thừa số, có ứng dụng hằng đẳng thức.
Tất nhiên là tôi mù tịt. Trong khi cả lớp cắm cúi làm thì tôi ngồi chờ thằng Bảy.
Nhưng tôi không ngồi không mà vẫn giả bộ chăm chú làm bài, ngòi viết vẽ nguệch ngoạc những hình thù vớ vẩn trên giấy. Bên cạnh tôi, Quang cũng đang ngồi cắn viết, trên trang giấy ngoài những đề toán ra chỉ có vỏn vẹn hai chữ “bài làm”. Ở đầu bàn bên kia, Đại đang làm bài ngon lành. Nó nghĩ ngợi một thoáng rồi cúi xuống bài tập hí hoái viết, rồi lại nghĩ, rồi laị viết. Ngòi viết chạy sồn sột trên giấy, ngó bắt mê. Hỏi mấy đứa bên lớp 8A3, tôi mới biết nó là học sinh giỏi. Năm ngoái, nó còn là đội viên xuất sắc, đạt danh hiệu cháu ngoan Bác Hồ nữa. Hèn gì mà nó “tác phong” gớm! Nhỏ Hiền ngồi kế thằng Đại dường như cũng làm bài được. Bài hằng đẳng thức ngày hôm trước nó học không hiểu còn hỏi tôi, sao hôm nay nó viết nhoang nhoáng vậy không biết!
Bài tập có ba đề toán nhỏ, làm trong mười lăm phút. Tôi ngồi vẽ bậy một hồi đã thấy nóng ruột. Liếc sang Bảy, thấy nó đã làm gần xong hết đề thứ hai, tôi liền thúc:
– Xích cùi chỏ ra mày!
Bảy liếc trộm lên bàn thầy một cái rồi lặng lẽ nhất cùi tay lên, để lộ những dãy chữ số bí hiểm nằm xếp hàng trên giấy một cách trật tự. Thế là cũng như năm trước và năm trước nữa, tôi âm thầm sao chép lại bài làm của nó. Đúng là con cá nó sống vì nước, tôi sống vì thằng Bảy!
Chép được vài ba dòng, tôi dòm sang thằng Quang, thấy nó vẫn ngồi trầm ngâm như một tượng đá, bài làm vẫn để trắng. Động lòng trước kẻ cùng cảnh ngộ, tôi hích nhẹ vô vai nó, thì thầm một cách hào hiệp:
– Ngó bài của tao mà chép!
Thằng Quang làm như không nghe thấy, nó vẫn ngồi im.
Tôi hích một cái nữa:
– Nè, chép bài của tao đi!
Lần này, Quang cau mặt:
– Tao không thích cóp-pi.
Tôi cảm giác như nó vừa dội một gáo nước lạnh lên đầu tôi. Tai tôi nóng ran. Tôi “xì” một tiếng:
– Lưu ban mà còn làm bộ!
Thằng Quang dáng mạo trông dữ tợn nhưng tính lại hiền. Nếu gặp đứa khác, nghe tôi nói đâm hông như vậy, d’am nó nổi nóng gây chuyện đánh nhau rồi. Nhưng đằng này, Quang chỉ ngồi yên, trán cau lại, còn môi thì mím chặt.
Tai thằng Đại thính như tai mèo. Nghe tiếng xì xào, nó quay sang:
– Đừng làm ồn chớ!
Đang “cóp” bài của thằng Bảy, tôi dại gì làm ồn. Chỉ tại thằng Quang khỉ gió kia thôi. Đã học kém mà còn lên mặt! Đã làm ơn lại còn mắc oán, tôi vừa tức anh ách trong bụng vừa theo dõi sít sao sự di động của cùi tay thằng Bảy.
Ai dè từ khi tôi và Quang xì xào, thằng Đại vừa làm bài vừa liếc chừng lại chỗ hai đứa tôi. Khi thấy tôi “cóp” bài của Bảy, nó nhắc liền:
– Huy không được coi lén bài của bạn.
Tôi giật mình, và trong bụng giận “cậu ông trời” kinh khủng. Nó “lật tẩy” tôi trước mặt nhỏ Hiền khiến tôi mắc cỡ muốn chết. Nhất là trước nay nhỏ Hiền cứ tưởng tôi là ông vua toán đến nỗi năn nỉ nhờ tôi giảng bài giùm. Mà tôi đâu có coi lén. Tôi coi đường đường chính chính, được sự đồng ý của Bảy đàng hoàng. Nhưng nghĩ trong bụng vậy thôi chớ tôi đâu dám nói ra.
Ngồi yên một hồi, thấy đã sắp hết giờ và Đại thì đang chúi mũi vô bài làm, tôi lại quay sang Bảy định tranh thủ kiếm thêm vài dòng cho xong bài số một.
Nhưng cặp mắt thằng Đại như máy ra đa, tôi vừa liếc bài của Bảy một cái, nó đã bắt gặp:
– Nè, tôi thưa thầy trừ điểm của cả hai bạn đó nghen!
Thằng Bảy nghe thằng Đại dọa, hoảng hồn hạ cùi tay xuống. Còn tôi thì thở dài một cái và chán nản đậy nắp viết lại. Bài này coi như bỏ, những bài tập kỳ sau mình phải tính cách khác! Năm nay tôi đụng thằng Đại, thật xui tận mạng, y như đụng sao quả tạ.
Do những biến cố như vậy mà lần đầu tiên kể từ ba năm nay, bài tập toán của tôi bị điểm 3. Quang còn tệ hơn, nó được có hai điểm. Bảy và Đại đều được điểm mười. Nhỏ Hiền bảy điểm. Sau này tôi mới biết là hôm trước, sau khi tôi ở nhà Hiền về, nó đã đem bài hằng đẳng thức qua nhờ Đại giảng. Nhà Đại ở kế chợ Cầu Ván, cách nhà nhỏ Hiền chừng một trăm thước. Nhờ vậy mà nhỏ Hiền được điểm bảy, có lẽ là điểm cao nhất của nó từ trước tới giờ về môn toán.
Điểm ba của tôi và điểm hai của Quang không phải chỉ là nỗi buồn của hai đứa tôi mà còn là nỗi buồn của cả tổ. Bởi vì nó kéo điểm học tập của tổ xuống theo.
Hôm tổng kết thi đua hàng tuần, thằng Can thay mặt ban cán sự lớp và ban thi đua chi đội lên đọc điểm số và thứ hạng.
Khi nghe công bố tổ năm đứng hạng sáu về học tập, mặt thằng Đại buồn xo. Về các mặt khác, tổ tôi đều xếp từ hạng tư trở lên, chỉ có học tập là tụt xuống dưới trung bình.
Sau khi ban cán sự lớp nhận xét từng tổ xong, tới lược các tổ trưởng đứng lên phát biểu ý kiến. Mỗi tổ đều phân tích điểm yếu của mình và nên phương hướng khắc phục.
Tới tổ năm, Đại đứng dậy:
– Về các mặt đạo đức, vệ sinh, lao động, rèn luyện thân thể, tổ năm đều có những cố gắng. Riêng về học tập, tổ năm còn yếu vì trình độ chưa đồng đều. Có bạn khá môn này laị yếu môn kia. Có bạn yếu nhiều môn một lúc. Trong thời gian tới, để khắc phục tình trạng này, tổ năm sẽ giúp đỡ lẫn nhau học tập ở trường cũng như ở nhà và sẽ xây dựng những đôi bạn cùng tiến mà theo lời thầy Dân nói thì trong vòng tuần tới trường ta sẽ phát động đồng loạt.
Nó nói nghe phat’ ghét. Có gì đâu mà trình độ chưa đồng đều. Nếu trong tiết toán vừa rồi nó cứ lờ đi để cho tôi “cóp” bài thả dàn, có phải là trình độ tổ năm sẽ “đồng đều” không! Lại còn nhà sinh vật Quang nữa, nếu nó chịu “cóp” bài như tôi thì đâu đến nổi nào. Sao tổ tôi toàn những đứa không biết điều vậy không biết!
Dòm bộ tịch ủ dột của Đại, tôi nhủ thầm một cách khoái chí: “Tại mày chứ tại ai!” Trong giờ ra chơi, Đại đến gần tôi, hỏi với vẻ thân mật:
– Hình như về nhà, Huy với Bảy có học chung với nhau phải không?
Chết rồi! Tôi than trong bụng. Hôm trước tụi tôi nói dối với thầy Dân mà “cậu ông trời” tưởng thiệt. Tôi giả bộ nhăn mặt:
– Chuyện của tao mày hỏi làm chi?
Đại trố mắt:
– Đây đâu phải là chuyện riêng. Việc học tập của mỗi người có liên quan đến việc học tập của cả tổ kia mà!
Tôi vặn lại:
– Vậy sao hôm trước tao… liếc sơ bài của thằng Bảy một chút mày lại làm khó làm dễ? Tại mày mà tổ mình mới tụt hạng đó, mày biết không?
– Sao lại tại tao? Đó là tại mày không chịu học hành đàng hoàng. Muốn cho tổ tiến bộ thì mỗi người phải cố học chứ đâu phải bày trò gian lận. Giúp đỡ nhau học tập không có nghĩa là cho bạn mình cóp-pi!
Lúc đầu, Đại định nói năng nhỏ nhẹ với tôi. Sau thấy tôi cãi bướng, nó nổi khùng, nói oang oang.
Tụi bạn trong lớp nghe ồn, chạy lại bu quanh. Thấy vậy, tôi lảng đi chổ khác sau khi buông thỏng một câu ngang phè:
– Mày lo cái xác của mày đi! Thân tao, tao lo!
Chuyện có chút xíu vậy mà ngay ngày hôm sau trên tờ bản tin của lớp, không biết tay nào “phang” ngay một bài thơ:
Lớp tôi có một anh chàng
Toán không lo học, cứ hoài cóp-pi
Vậy mà tổ trưởng phê bình
Thì anh ta lại nổi khùng nói ngang
Muốn khá thì phải ráng lên
Mới mong đưa tổ vượt lên trên trung bình.
Bài thơ có tựa là “Nhắn ai”, nhưng rõ ràng là nhắn tôi rồi. Ở dưới ký tên là Kiến Lửa. Tôi nghĩ hoài mà không đoán ra Kiến Lửa là ai. Chắc chắn không phải là thằng Chí rồi, mặc dù tôi với nó đến nay vẫn chưa hoà giải được vụ xích mích từ hôm xếp lại chổ ngồi. Chí bà con với rệp chứ không thể họ hàng với kiến được. Vả lại, Chí chẳng làm thơ bao giờ, dù là thơ con cóc như bài thơ này. Thơ lục bát gì mà lạc vần ráo trọi. “Chàng” mà vần với “hoài” làm sao được! Lại còn “pi” với “bình”, “ngang” với “lên” nữa. Đó là chưa kể câu: Dt lại dư ra một chữ. Dốt đến vậy mà còn bày đặt làm thơ châm chích người khác. Tôi lầm bầm trong bụng một cách tức tối nhưng rốt cuộc vẫn không nghĩ ra thủ phạm là ai.
Trong khi đó thì đám bạn trong lớp xúm lại trước bài thơ vừa đọc vừa cười hinh hích. Đám con gái làm tôi ngứa mắt nhất. Chúng vừa coi vừa bá vai nhau cười khúc kha khúc khích, tỏ vẻ thích thú lắm. Đã vậy, chúng cứ đứng lì trước tờ bản tin, đọc đi đọc lại bài thơ chớ không chịu đi cho khuất mắt. Mỗi một tiếng cười của chúng như mỗi mũi kim chích vô tim tôi, đau nhói. Tôi vừa xấu hổ, vừa giận dỗi, lại vừa thầm công nhận cái con kiến lửa quỷ quái này chích độc thiệt. Nếu tôi biết nó là đứa nào, chắc nó mềm xương với tôi.
Tất nhiên tôi có thể hỏi nhỏ Kim Liên, lớp phó học tập kiêm chủ bút bản tin, để dò la tin tức thủ phạm, mặc dù chưa chắc nó chịu nói. Nhưng tôi không thèm hỏi. Dù gì thì tôi cũng là cựu chủ bút của cái tờ bản tin kiêm báo tường này. Năm ngoái, chính tay tôi đã từng sửa bài của nó trước khi chọn đăng, không lý gì bây giờ lại đi hạ mình trước nó để hỏi “tiểu sử” của nhà thơ Kiến Lửa dở ẹc kia.
Thật ra tôi giận con kiến thì ít mà tức con cóc thì nhiều. Trăm sự cũng tại thằng “cậu ông trời” mà ra hết. Nói cho đúng ra, gọi thằng Đại là “cậu ông trời” trong thời điểm này cũng không chính xác lắm. Bởi vì càng ngày tôi càng nhận ra Đại chỉ lầm lì, ít nói với những chuyện gì chứ với chuyện học tập và sinh hoạt trong tổ thì nó to mồm nhất hạng. Chuyện gì của tụi tôi nó cũng xét nét, cũng có ý kiến. Mới hôm qua, thằng Bảy lại bị nó chỉnh về việc nhét khăn quàng đỏ trong cặp, đợi vô lớp mới đem ra đeo. Nhưng đặc biệt là nó thường xuyên “đụng” tôi, y như là hai đứa không thể đội trời chung trong một cái bàn vậy.
Càng nghĩ, tôi càng tức Đại, đồng thời tôi cũng cảm thấy lòng tự ái bị thương tổn khi nghĩ rằng dưới mắt nó, tôi chỉ là đứa học trò chuyên môn phạm lỗi và là một thành viên vô tích sự của tổ năm.
Bài thơ ác khẩu kia làm tôi buồn bã hết mấy ngày. Trong mấy ngày đó, tôi không còn hào hứng la hét, chạy nhảy trong giờ chơi như thường lệ nữa. Tôi cũng không dám lởn vởn trước mặt bọn con gái, càng không dám thỉnh thoảng cao hứng chọc ghẹo chúng như trước. Còn đối với nhỏ Hiền thì tôi tuyệt đối không dám chạm mặt. Nếu tình cờ bắt gặp ánh mắt của nó bao giờ tôi cũng vội vã quay đi.
Phải đợi đến tiết ngữ pháp sáng nay, nỗi buồn kia mới có dịp chắp cánh bay đi khỏi tâm hồn tôi. Bởi vì bài kiểm tra ngữ pháp của thầy Dân chỉ có mình tôi được điểm mười. Những đứa khá nhất trong lớp chỉ đạt tới điểm chín là cao nhất. Tổ tôi chỉ có mình Đạt là đạt điểm tám. Những đứa khác chỉ đạt điểm trung bình.
Khi thầy Dân hô tên đọc điểm để ghi vô sổ, tôi hồi hộp chờ đến tên mình. Cái tên Phan Thanh Huy đối với tôi vô cùng thân thuộc, vậy mà khi nghe thầy gọi tôi vẫn bị giật mình, mặc dù tôi đã chuẩn bị tinh thần khi thầy Dân kêu đến những đứa vần H như thằng Hân, thằng Hùng.
Tôi đứng bật dậy, dõng dạc:
– Mười!
Tiếng “mười” từ miệng tôi thốt ra gây chấn động không khác gì quả bom nguyên tử. Những đứa bàn trên mặc dù đã biết tôi là “cây ngữ pháp” từ năm lớp sáu vẫn quay đầu lại dòm. Đám con gái thì chắc lưỡi trầm trồ một cách lộ liễu.
Sau khi ngồi xuống, bất giác tôi quay sang nhỏ Hiền và thấy nó đang nhìn tôi, nhoẻn miệng cười. Tự nhiên tôi bỗng quên hết mọi buồn phiền trước đây và nhe răng cười khì một cái.
Hiền chìa tay:
– Huy cho Hiền mượn bài làm của Huy đi!
Tôi chỉ thằng Quang, lúc này đang ngồi đọc bài làm của tôi chăm chú không khác gì bác sĩ đang nghiên cứu vi trùng vậy.
– Vậy lát nữa Huy cho Hiền mượn nghen!
Tôi vui vẻ gật đầu, hệt như một ông tiên hào phóng sẵn sàng ban phép lạ của mình cho tất cả mọi người.
Ngay cả thằng Đại, lúc ra về cũng lại gần tôi, xuýt xoa:
– Mày học ngữ pháp “siêu” quá hén!
Lần đầu tiên, Đại khen tôi. Vì bất ngờ, tôi chỉ ậm ừ trong miệng, không đáp. Nhưng trong lòng tôi, nỗi bực tức đối với nó đã giảm đi một nửa.
– Sắp tới Huy kèm ngữ pháp cho những bạn yếu trong tổ được không?
Cũng lần đầu tiên, Đại “nhờ vả” tôi, dù không nhờ vả cho bản thân mình nhưng cũng là nhờ vả.
Tôi gật đầu, kiêu hãnh:
– Được thôi! Khó gì môn ngữ pháp!
Ngoài miệng thì nói câu đó nhưng trong bụng tôi lại nghĩ câu khác: “Phải chi môn toán mình cũng học ‘siêú như môn ngữ pháp thì khoái biết mấy!”.
Cái câu nói thầm trong bụng đó làm tôi trằn trọc suốt đêm.
Chương 5:
Thế rồi, theo như thông lệ hàng năm, sau những tuần đầu dành cho việc ổn định lớp, nhà trường phát động phong trào xây dựng đôi bạn cùng tiến, mở đầu một quá trình thi đua thật sự.
Mỗi năm, cứ đến dịp này, lớp tôi xôn xao cả lên. Về việc chọn bạn học chung bao giờ cũng gây ra lắm tranh cãi.
Thường thì giáo viên chủ nhiệm chia số học sinh trong lớp ra làm bốn loại trên bảng: giỏi, khá, trung bình, yếu, căn cứ vào bản xếp loại cuối năm học trước. Theo đó, cứ một học sinh giỏi đi kèm với một học sinh yếu, học sinh khá bắt cặp với học sinh trung bình. Lý thuyết thì đơn giản như vậy nhưng việc thực hiện không phải lúc nào cũng suông sẻ. Thứ nhất, không phải học sinh nào cũng đồng ý với bản xếp loại năm ngoái, mặc dù sự xếp loại này đã được ghi vào học bạ đàng hoàng. Có những đứa nhất quyết không chịu nhận mình là khá mà cứ nằng nặc đòi tụt xuống hạng trung bình để khỏi phải nhận trách nhiệm “đỡ đầu” một học sinh trung bình khác. Trở ngại thứ hai là vấn đề tình cảm. Có những đôi bạn chơi thân với nhau từ trước, bây giờ cứ muốn học chung với nhau chớ không chịu tách ra. Nhưng kẹt một nỗi, hai đứa đều là học sinh giỏi hoặc đều là học sinh yếu nên không thể để như vậy được. Bắt chúng chịu “chia tay” nhau quả không phải dễ.
Lại có trường hợp đứa này chọn học với đứa kia nhưng đứa kia không chịu mà lại chịu đứa khác. Trong khi đứa khác đó thì lại thích một đứa khác nữa. Cái vòng lẩn quẩn, rối rắm đó lan ra theo dây chuyền và xoay vòng vòng quanh lớp khiến giáo viên chủ nhiệm phát nhức đầu.
Nhưng rồi cuối cùng đâu cũng vô đó. Nhưng từ “đâu” mà đi đến “đó” đã xảy ra không biết bao nhiêu cãi vã, giằng co, thương tâm và vui nhộn. Trong tình trạng đó, có những đôi bạn cùng tiến chẳng tiến được một chút xíu nào. Ở trong lớp thì đứa ngồi tít bàn trên, đứa ngồi tận bàn dưới, chẳng có cơ hội trao đổi với nhau. Khi ra chơi thì đứa nào cặp kè với bạn đứa đó, mặc kệ cái đứa “cùng tiến” với mình. Về nhà thì chẳng ai với ai, một là chúng vốn chẳng chơi thân nhau, thứ nữa là nhà chúng chẳng gần nhau. Vì vậy mà suốt cả một năm học, đứa khá cứ việc khá, đứa yếu cứ việc yếu, chẳng ai làm phiền ai.
Có lẽ thầy Dân thấy được điều đó nên năm nay lớp tôi không xây dựng đôi bạn cùng tiến theo kiểu đó nữa. Theo gợi ý của thầy, chúng tôi xây dựng đôi bạn cùng tiến ngay trong tổ học tập của mình, và lấy tổ học tập làm đơn vị thi đua.
Như vậy, đôi bạn cùng tiến được ngồi chung bàn với nhau, có điều kiện gần gũi, trao đổi hàng ngày, thúc đẩy nhau học tập. Và ngoài việc giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, đôi bạn này còn có trách nhiệm góp phần vào sự đi lên của tổ chứ không tách rời khỏi “số phận” của tổ như những năm trước. Do thực tế đó, trách nhiệm của tổ trưởng là phải kiểm tra kết quả học tập của những đôi bạn cùng tiến trong tổ. Trước đây, lớp phó học tập làm nhiệm vụ này. Và kết quả là, sau một thời gian theo dõi không xuể cùng một lúc trên hai mươi cặp “đôi bạn cùng tiến”, lớp phó học tập đành buông xuôi luôn.
Đúng ra thì không phải cách làm của thầy Dân hoàn toàn trôi chảy. Do cách sắp xếp chỗ ngồi “nhỏ trước lớn sau”, có những tổ hầu hết là học sinh yếu, ngược lại có những tổ dồn toàn học sinh khá. Lại phải đổi chổ một lần nữa. Tuy nhiên trường hợp này không nhiều.
Thằng Tuấn tổ trưởng tổ bốn, thình lình đứng lên nói:
– Thưa thầy, mỗi tổ năm người, như vậy lẻ một người ạ!
Thầy Dân gật đầu:
– Đúng rồi, lẻ một người! Do đó các em phải chia một nhóm hai người, một nhóm ba người.
Tuấn vẫn thắc mắc:
– Thưa thầy, đã gọi “đôi bạn cùng tiến” thì phải là hai người chứ ạ!
– Vấn đề không phải là hai người hay ba người! – Thầy Dân cười, giải thích – Cái chính là các em giúp đỡ nhau học tập như thế nào, hiệu quả ra sao.
Tuấn ngồi xuống. Nhưng thằng Chí bép xép lại giơ tay đứng dậy:
– Như vậy, chúng em gọi là “ba bạn cùng tiến” được không ạ?
Cái thằng thiệt là vô duyên hết chổ nói. Hỏi đâm hông kiểu đó, nếu tôi là thầy Dân thì tôi phạt nó một trận ra trò. Nhưng thầy Dân không khó tính như tôi, thầy mỉm cười vui vẻ:
– Được thôi! Quan trọng là chữ “cùng tiến” chứ không phải ở chữ “đôi bạn” hay “ba bạn”.
Đến đây thì không còn ai có ý kiến gì nữa. Các tổ chụm đầu sắp xếp việc nội bộ.
Ở tổ tôi, tôi với thằng Bảy đích thị là một cặp rồi. Thầy Dân chẳng khen chúng tôi có “nề nếp” sẵn từ trước là gì! Tôi không thể cặp với nhỏ Hiền được (mặc dù tôi cảm thấy thinh thích khi nghĩ đến điều đó), lại càng không thể cặp chung với “cậu ông trời”. Học chung với nó ba bữa chắc xảy ra đánh lộn mất. Còn nhà sinh vật lưu ban kia thì ngoài mớ kiến thức về kiến, dế, nhện, thỏ… ra, chẳng có gì gọi là hấp dẫn cả. Với Bảy thì tôi kèm văn cho nó, còn nó kèm toán cho tôi, đâu đó rõ ràng.
Cặp thứ hai là Đại với Hiền. Hai đứa nhà vốn gần nhau. Hơn nữa, nhỏ Hiền từng nhờ “cậu ông trời” giảng bài giùm nhiều lần rồi.
Rốt cuộc, còn dư ra nhà sinh vật. Thoạt đầu, Đại và Hiền rủ Quang nhập vô nhóm mình nhưng Quang không chịu. Nó khoái học chung với Bảy và tôi hơn. Nó nể thằng Đại nhưng không “hợp” với thằng này, bởi vì Đại tính nghiêm, ít giỡn. Còn tôi với Bảy thì khỏi nói, lúc nào cũng cười giỡn đủ trò. Hơn nữa tôi là đứa hay vểnh tai nghe những câu chuyện kỳ lạ của nó một cách thích thú. Quang khoái một thính giả trung thành như tôi lắm, mặc dù thỉnh thoảng tôi thường lôi “thành tích” lưu ban của nó ra để châm chọc.
Bảy hỏi tôi:
– Sao mày?
– Sao cái gì?
– Cho thằng Quang vô nhóm mình không?
Tôi nhíu mày:
– Tao kèm văn, mày kèm toán, còn nó kèm mình môn gì?
Bảy gãi tai:
– Thì nó kèm mình môn sinh vật.
Tôi nhúng vai:
– Sinh vật mà kèm quái gì! Môn đó tao chỉ cần học thuộc bài thôi!
Bảy ngó tôi:
– Vậy là mày không chịu hả?
Tôi ngần ngừ một thoáng rồi đáp:
– Thôi, cũng được! Để hôm nào tao nói nó dạy mình cách nuôi thỏ.
Quang coi việc được tiếp nhận vô nhóm tôi như một hạnh phúc lớn. Nó cười toe. Như vậy là từ nay, ba đứa tôi trở thành “ba bạn cùng tiến”. Khỉ thật! Thế là vô tình tôi lại dùng cái từ do thằng Chí bép xép nghĩ ra!
*
* *
Ngoài các tiết học ở lớp, các nhóm bạn cùng tiến phải học thêm ở nhà. Bảy đề nghị học tại nhà nó, với lý do là nó phải bán hàng và trông em cho má.
Nhưng tôi không chịu. Tôi chỉ đồng ý về môn toán thôi. Điều đó cũng dễ hiểu. Bởi vì tôi không muốn phơi bày sự kém cỏi của mình trước cặp mắt xoi mói của thằng Tin. Nhưng về môn văn, tôi nhất quyết bắt hai đứa kia phải đến nhà tôi.
Thằng Quang biết thân biết phận, không dám hó hé gì về việc này, cũng không dám bênh bên nào bỏ bên nào. Vả lại, đối với nó, học nhà đứa nào cũng vậy thôi. Nhà nó ở tít rạp hát Hương Bình, đạp xe tới nhà tôi hay nhà Bảy, đằng nào cũng toát mồ hôi hột.
Chỉ có tôi và Bảy là tranh chấp quyết liệt về địa điểm. Thấy tôi không thèm “ngó ngàng” gì đến “gian hàng” và đàn em của nó, Bảy giở “bửu bối” ra:
– Chân tao thế này!
Nhưng lần này tôi quyết không động lòng trước miếng đòn lợi hại của nó, tôi khịt mũi:
– Thường ngày mày vẫn qua nhà tao mượn truyện được mà!
Nghe nói đến “truyện”, Bảy giật mình và sực nhớ ra tôi có một miếng đòn còn hiểm ác gấp mấy lần miếng đòn của nó. Những lần cãi nhau trước đây, khi thế trận còn giằng co giữa hai bên tôi thường giáng đòn quyết định: không cho Bảy mượn truyện nữa. Đòn luôn luôn trúng đích: Bảy tối tăm mặt mũi. Và bao giờ cũng vậy, nó đầu hàng vô điều kiện. Thực ra thư viện trường tôi không thiếu sách, nhưng những loại sách đó, Bảy không màng. Nó chỉ mê loại sách giật gân mà anh tôi thường mua. Anh tôi làm việc ở nhà máy giấy trên Thủ Đức. Hai, ba tuần, có khi cả tháng, anh mới về nhà một lần. Lần nào về cũng có sách mới. Những ngày anh tôi về thăm nhà không phải ba má tôi hay anh em tôi mà chính Bảy là người sung sướng nhất.
Vì lẽ đó, khi nghe tôi nó đến “truyện”, Bảy thở dài xuôi xị:
– Thôi, vậy cũng được!
*
* *
Được làm “thầy” thiên hạ, tôi khoái lắm. Ngay buổi học chung đầu tiên, tôi bắt mỗi đứa phải sắm một cuốn tập để làm “sổ tay văn học”.
Quang ngơ ngác:
– Sổ tay văn học là gì?
Tôi giảng giải:
– Đó là cuốn sổ tay để ghi chép những đoạn văn hay, những bài thơ hay hoặc là những câu danh ngôn của những người nổi tiếng. Bất cứ một học sinh nào muốn giỏi văn cũng phải có cuốn sổ đó để bồi dưỡng kiến thức và rèn luyện cách hành văn.
Tôi nói y hệt cô Thanh năm ngoái.
Trong khi Quang đang gật gà gật gù ra vẻ tâm đắc thì Bảy bĩi môi:
– Tưởng gì! Cuốn sổ đó năm ngoái tao làm rồi!
Bảy làm tôi mất hứng. Tôi liền hất hàm:
– Đâu? Mày đưa tao coi!
Bảy chìa cuốn sổ của mình ra.
Tôi lật coi một hồi rồi bất thình lình ôm mặt tru tréo:
– Ối trời ơi! Cái này mà sổ tay văn học!
Bảy đỏ mặt thò tay giật cuốn sổ nhưng tôi vẫn giữ chặt và giở ra đọc trước cặp mắt tò mò của thằng Quang:
– “Tên rậm râu giữ chặt tôi. Hắn lấy khăn ăn nhét vào miệng tôi, sau đó lấy dây trói chân tay tôi lại. Tên kia trong lúc đó cúi xuống chồng tôi. Hắn lấy từ trên bàn trang điểm con dao rọc giấy của tôi và chĩa mũi nhọn vào thẳng chổ tim chồng tôi. Sau đó…”
Tôi mới đọc tới đó thì Bảy nổi xung bặm môi giật phăng cuốn sổ. Nếu tôi không buông tay thì cuốn sổ đã rách toạt rồi.
– Cái này tao chép từ năm ngoái kia, đâu phải năm nay.
Bảy thanh minh, sau khi nhét cẩn thận cuốn sổ vô lưng quần. Còn thằng Quang thì ngồi cười hí hí.
Thấy Bảy nổi cộc, tôi không dám chọc nó nữa. Ai chớ nó đã nổi cộc thì kinh lắm. Tôi lấy cuốn sổ tay văn học của tôi ra cho hai đứa coi. Đó không phải là cuốn tập thông thường mà là một cuốn sổ tay giấy ca-rô dày tới hai trăm trang, bìa có bọc xi-mi-li màu đỏ.
Cuốn này ba tôi tặng tôi năm ngoái nhân dịp tôi lên lớp bảy. Đến nay, tôi đã chép những đoạn văn, thơ hay vào gần nửa cuốn sổ. Đó là một công trình thật sự mà không phải đứa nào trong lớp tôi cũng làm được. Đúng ra thì ở lớp các thầy co dạy văn vẫn thường khuyên chúng tôi làm sổ tay văn học nhưng để biến lời khuyên đó thành hành động lâu bền thì lại phải đòi hỏi hứng thú. Tôi phải nói rằng chính ba tôi là người đã dạy cho tôi sự say mê đọc sách và thói quen ghi chép. Trước đây có một thời ba tôi là nhà báo. Dù bây giờ ông đã chuyển sang công tác khác, cái thói quen đọc và ghi ngày xưa vẫn còn và ông hết lòng truyền lại cho tôi. Ông khuyên tôi nên đọc kỹ những sách báo nào và chỉ cách rút ra những điều cần thiết từ những trang sách. Còn những loại sách giải trí, ông không cấm tôi đọc nhưng nhắc nhở tôi đừng để mất thời giờ nhiều cho những loại đó. Vì vậy mà tôi không sa vào vết chân của anh tôi và của thằng Bảy.
Đọc và ghi dần dần trở thành một thú vui bổ ích đối với tôi. Và dĩ nhiên là kết quả của nó không có gì đáng phàn nàn, tôi học văn ngày càng tiến. Chỉ có một điều là, những gì tôi làm được với môn văn tôi đều không làm được với những môn khác.
Bảy và Quang tranh nhau đọc cuốn sổ của tôi. Tụi nó hít hà khi thấy những trang giấy dày đặc những chữ, dòng nào dòng nấy ngay ngắn, rõ ràng và dưới những đoạn văn đều có ghi chú cẩn thận tên tác phẩm, tác giả.
Quang vuốt ve cái bìa, khen:
– Đẹp quá hén!
Bảy thực tế hơn:
– Mày cho tao mượn về nhà ít bữa nghen! Tao chép vô cuốn sổ của tao.
Lời đề nghị của Bảy khiến Quang giật mình:
– Tao nữa chớ!
Trước tình huống đó, tôi đóng vai một ông anh tốt bụng:
– Đứa nào mượn trước cũng được. Hết đứa này tới đứa kia.
Sau khi thông qua chuyện “sổ tay văn học”, ba đứa bắt tay vào chuẩn bị cho một tập làm văn ngày mai.
Quang vừa giở tập vừa nhăn nhó:
– Văn nghị luận là gì tao vẫn chưa hiểu. Mày giảng lại đi!
Cái thằng thiệt dở hết chổ nói! Bữa nay thầy Dân đã dạy tới dàn ý của một bài phân tích tác phẩm rồi mà nó còn hỏi văn nghị luận là gì. Tôi đang phân vân thì Bảy lên tiếng:
– Phải đó! Mày giảng lại chỗ văn nghị luận đi! Tao cũng lờ mờ chỗ đó lắm!
Thực ra thì hầu hết học sinh lớp tám chúng tôi đều ớn môn tập làm văn. Mới chân ướt chân ráo từ lớp bảy lên, ngay tiết học đầu tiên đã đụng đầu cái “cốp” vào văn nghị luận, đứa nào cũng bật ngửa. Bởi vì từ những năm cuối cấp một cho đến năm lớp sáu, lớp bảy, chúng tôi chỉ học những thể loại quen thuộc như miêu tả, tường thuật, thư tín… bây giờ đụng phải thứ văn nghị luận hóc búa và mới toanh, ai mà không ngán.
Ngay sau tiết tập làm văn đầu năm, tôi cũng chưa hiểu thật rõ ràng văn nghị luận là gì. Tôi về hỏi ba tôi. Ba tôi kêu tôi và thằng Tin ngồi vào bàn. Rồi ông hỏi tôi, bằng một câu không liên quan gì đến điều mà tôi muốn biết:
– Con thích màu gì nhất?
Thoạt đầu, tôi rất ngạc nhiên. Nhưng rồi sau một thoáng đắn đo, tôi trả lời:
– Con thích màu đỏ nhất.
Ba tôi lại quay sang Tin:
– Còn con, con cho màu nào là đẹp nhất?
Tin bao giờ cũng làm trái ý tôi, nó nhanh nhẩu:
– Màu xanh.
– Tại sao con cho màu xanh là đẹp? – Ba tôi hỏi tiếp.
– Tại vì màu xanh là màu hy vọng.
Không biết thằng Tin học của ai mà nó nói một câu nghe y như người lớn. Thực ra tôi biết sở dĩ nó khen màu xanh chỉ vì tôi thích màu đỏ. Do đó, nghe nó trả lời dương dương tự đắc, tôi nổi xung, đốp ngay, không chờ cho ba tôi hỏi:
– Màu xanh mà đẹp quái gì! Màu đỏ mới đẹp. Màu đỏ là màu của mặt trời, của ánh sáng. Màu đỏ là màu hoa hồng. Màu đỏ là màu cờ tổ quốc, là màu của chiến thắng. Màu đỏ tạo nên cảm giác hăng say làm việc…
Tôi đang cao hứng thao thao bất tuyệt thì Tin chen ngang:
– Anh mà hăng say làm việc! Anh làm biếng thấy mồ!
Tôi sững người lại như đang đi vấp phải một cục đá. Ba tôi nạt Tin:
– Con không được nói vậy! Nếu muốn cãi nhau thì phải cãi nhau cho đàng hoàng.
Tin rụt cổ:
– Con có định nói vậy đâu. Tự nhiên cái miệng con nó buột ra đó chớ!
Ba tôi nghiêm mặt:
– Thôi, con đừng có bào chữa! Nào, bây giờ thì theo con anh Huy nói đúng không?
Tin rướn người lên:
– Con vẫn thấy màu xanh đẹp. Đó là màu bầu trời, màu cây cối, màu biển cả, màu… màu aó…
Tôi trố mắt:
– Áo nào?
Tin khuỳnh tay ra:
– Áo em đang mặc nè!
Nói xong, nó cười hí hí.
Tôi nhăn mũi:
– Cái áo xấu hoắc mà cũng khoe!
– Chớ anh tưởng áo anh đẹp lắm hả – Tin vênh mặt.
Hai anh em tôi đang chuẩn bị lạc đề thì ba tôi liền vội vàng điều chỉnh:
– Thôi, nói năng nghiêm túc đi!
Lẽ tất nhiên là cuộc tranh cãi về màu sắc giữa tôi và thằng Tin còn tiếp tục lạc đề thêm nhiều lần nữa nhưng người trọng tài là ba tôi bao giờ cũng can thiệp kịp thời. Cuối cùng thì Tin, vì không có một ý thích thực sự rõ ràng, đành công nhận là màu đỏ đẹp. Tuy nhiên, nó cố vớt vát:
– Nhưng màu xanh cũng đẹp, đẹp cách khác.
Hẳn nhiên nó nói vậy để “giữ uy tín” nhưng dù sao tôi cũng tìm thấy trong đó nhiều phần đúng.
Nhưng điều quan trọng không phải ở chỗ đó. Cái chính là, sau cùng ba tôi kết luận:
– Như vậy là con đã cố chứng minh một điều và cố làm cho người khác tin điều đó là đúng. Để thuyết phục, con đã phải vận dụng lý lẽ. Và để lý lẽ thêm vững chắc, con đã dùng những dẫn chứng. Tất cả những điều vừa rồi, trong cuộc sống hằng ngày, ta thường gọi là tranh cãi hay tranh luận. Trong nhà trường, người ta gọi là nghị luận. Tất nhiên cuộc tranh cãi giữa con và Tin chỉ là hình thức đơn giản, phương pháp không khác nhau bao nhiêu. Bây giờ con đã hiểu văn nghị luận là gì chưa?
Bài vỡ lòng của ba tôi thật là sáng sủa, dễ hiểu. Và đến lúc đó, tôi mới hiểu tại sao ba tôi lại bày ra trò cãi nhau giữa anh em tôi. Chính nhờ những khái niệm rõ ràng đó mà tôi tiếp thu những bài học sau một cách dễ dàng.
Bây giờ, trước những thắc mắc của Bảy và Quang, tôi quyết định áp dụng phương pháp của ba tôi.
Tôi hỏi Bảy:
– Mày thích màu nào nhất?
Bảy ngơ ngác:
– Tao hỏi về văn nghị luận sao mày lại nói chuyện màu mè ở đây?
Tôi gắt:
– Đó là phương pháp của tao, mày đừng có thắc mắc! Sao, trả lời lẹ đi! Mày thích màu nào nhất?
Thấy “ông thầy” nổi nóng, Bảy suy nghĩ một lát rồi đáp:
– Màu vàng.
Tôi quay sang Quang:
– Còn mày?
Quang ấp úng:
– Cũng… màu vàng.
Cái thằng a dua này làm tôi cụt hứng. Tôi hỏi lại, giọng nghiêm nghị:
– Mày đừng có bắt chước thằng Bảy! Mày nói thiệt đi. Mày thích màu gì?
Quang lúng túng chưa biết trả lời sao thì tôi tiếp luôn:
– Sao, màu gì? Màu đỏ phải không?
Quang gật đầu, sắp sửa rơi vào kịch bản của tôi nhưng không hiểu sao đến phút: Dt, nó lại đâm bướng:
– Tao thích màu vàng.
Tôi tức muốn ói máu:
– Thiệt không?
Quang khăng khăng:
– Thiệt mà.
– Thiệt thì thôi!
Tôi trả lời xụi lơ.
Sau khi nghĩ thoáng trong đầu một đề tài mới, tôi lại hỏi Bảy:
– Mày thích đi xe hơi hay đi xe lửa?
Mặc dù chưa biết phương pháp giảng dạy của tôi hay dở thế nào, nhưng lần này Bảy không ngạc nhiên nữa. Nó đáp ngay:
– Xe lửa.
– Còn mày?
Tôi hỏi Quang, cặp mắt chăm chú.
Một lần nữa, nó lại làm tôi thất vọng:
– Tao chưa đi xe lửa bao giờ làm sao trả lời.
– Vậy thì mày cứ thích đi xe hơi đi! – Tôi nóng ruột, mớm.
Quang lắc đầu:
– Xe hơi mà thích quái gì! Mùi xăng hôi thấy mồ!
Tôi lại suy nghĩ, đầu quay như chong: Dng. Vừa nghĩ tôi vừa rủa thầm thằng Quang: Trăm sự rắc rối cũng tại nhà sinh vật khỉ gió này! Cuối cùng tôi cũng đặt được một câu hỏi khác:
– Mày thích ăn món gì, Bảy?
Thấy tôi hỏi loạn xạ mà chưa động gì tới văn nghị luận, mặt Bảy hơi lộ vẻ sốt ruột. Tuy vậy, nó vẫn trả lời nghiêm chỉnh:
– Hủ tiếu.
Tôi liếc Quang, trống ngực đập thình thịch một cách hồi hộp. Nhưng tôi chưa kịp hỏi thì nó đã mau mắn:
– Còn tao, tao thích ăn bún hơn.
Tôi nghe nhẹ cả người. Đúng là, hễ dính đến ăn uống là có chuyện ngay. Về khoản này, chẳng đứa nào chịu đứa nào. Tôi đi bước thứ hai:
– Tại sao mày thích ăn hủ tiếu? Nêu lý do coi!
Bảy liếm mép, nói:
– Bở vì trên đời không có gì ngon bằng hủ tiếu. Từng sợi hủ tiếu trắng mịn, mềm mại nằm khêu gợi trong tô hủ tiếu… Tôi chọc:
– Chớ chẳng lẽ hủ tiếu nằm trong tô phở?
Bảy nguýt tôi một cái rồi tiếp tục thuyết trình về hủ tiếu:
– Nước xúp béo ngậy, gia vị thơm tho, thịt bò viên ngọt lịm ăn với hành lá, hành cọng giá, xà lách chấm tương ớt thì không chê vô đâu được. Đó là chưa nói đến hủ tiếu gà, hủ tiếu lòng, hủ tiếu Mỹ Tho, hủ tiếu Nam Vang…
Bảy nói tới đâu, tôi chảy nước miếng tới đó. Cái thằng ác nhơn thiệt, bảo nó nói sơ sơ nó lại tả chi tiết quá xá!
Nhưng thằng Quang thì không màng gì tới món bò viên của Bảy, nó trề môi:
– Hủ tiếu mà ngon lành gì, không bằng một góc bún. Tao kể mày nghe sơ sơ mấy loại bún nè: Bún mọc, bún riêu, bún bò Huế, bún thịt nướng, bún xáo măng, bún thang…
Sau đó, nó đi vào mô tả kỹ lưỡng từng loại, còn chi tiết gấp mấy lần thằng Bảy, để chứng minh vị trí hàng đầu của bún.
Bảy đâu chịu để “bún” tấn công mình, nó nhún vai khinh thường:
– Bún đâu có ăn với lòng bò được. Còn hủ tiếu lòng bò ngon hết sẩy!
Quang nhếch mép:
– Nhưng hủ tiếu không có thịt nướng. Thịt nướng thơm thấy mồ!
– Bún không thể ăn chung với mì. Còn tao có hủ tiếu mì.
Hai đứa cứ vậy ngoác mồm cãi nhau chí: De. Tôi làm trọng tài, vừa theo dõi cuộc tranh luận vừa nuốt nước miếng, trong lòng tự trách mình đáng lẽ không nên đụng đến cái đề tài quá sức hấp dẫn này. Đồng thời, tôi cũng lấy làm lạ khi hai đứa bài xích bún và hủ tiếu của nhau hung hăng như vậy. Gặp tôi, tôi khoái cả hai thứ, chẳng chê thứ nào.
Thỉnh thoảng hai đứa bạn của tôi cũng lạc đề hệt như tôi với thằng Tin hôm trước.
Quang đỏ mặt tía tai:
– Mày chê bún sao bữa trước mày lại ăn?
– Ăn ở đâu? Đừng có xạo!
– Ăn trong căn-tin chớ đâu! Tao thấy rõ ràng!
– Còn mày, mày làm như mày không ăn hủ tiếu vậy! Hừ!
Chỉ đợi có vậy, tôi đập bàn như một quan tòa:
– Đề nghị tranh luận nghiêm túc!
Thế là hai đấu thủ vội vàng trấn tĩnh lại, nghỉ lấy hơi. “Lấy hơi” xong, cải hai lập tức “nhảy xổ” vào nhau, không cần đợi trọng tài ra hiệu. Bảy nhảy xổ vào “bún”, khinh bỉ. Quang nhảy xổ vào “hủ tiếu” dè bỉu.
Đến khi cả hai cãi nhau mệt muốn đứt hơi, không đủ sức xỉ vả món ăn thù địch nữa, đang ngồi thở dốc trên ghế, tôi mới bắt đầu giảng bài, giọng trịnh trọng:
– Như vậy là các bạn đã cố chứng minh một điều và cố làm cho người khác tin điều đó là đúng. Để thuyết phục, các bạn đã phải vận dụng lý lẽ…
Tôi nói hệt những điều ba tôi đã nói với tôi.
Nghe tôi “giảng” xong, Bảy và Quang phục “phương pháp của tôi” sát đất. Bởi vì, mặc dù sau khi tranh cãi chúng vẫn chưa xác định được giữa bún và hủ tiếu thứ nào ngon hơn thứ nào, nhưng chúng đã có một khái niệm rõ ràng về thứ văn nghị luận hiểm hóc.
Buổi học chung đầu tiên kết thúc một cách tốt đẹp. Hai đứa bạn tôi ra về phấn khởi. Bảy không quên cầm theo cuốn sổ tay văn học của tôi.
Còn tôi, sau khi tiễn hai “học trò” ra về liền liếm mép một cái và chạy ngay xuống nhà dưới tìm má tôi, nằn nì:
– Má ơi, ngày mai nhà mình làm bún hoặc hủ tiếu ăn nghen má?
Má tôi gật đầu làm tôi sung sướng vô kể. Nhưng điều mà tôi sung sướng nhất ngày hôm đó là sự vắng mặt của thằng Tin.
Nếu nó ở nhà, thế nào nó cũng “kê” tôi:
– Phần nói về văn nghị luận, anh học lỏm của ba! Lêu lêu!
Chương 6:
Vừa qua, ban giám hiệu và chi đòan nhà trường liên hệ với nông trường Lê Minh Xuân mua được mấy trăm cây bạch đàn con, chuẩn bị phát động phong trào trồng cây trong nhà trường.
Sáng nay, thứ hai đầu tuần, sau khi sinh hoạt lớp mười lăm phút, thầy Dân kêu tổ một và tổ hai lên văn phòng nhận cây về trồng. Các tổ còn lại thì lên nhà kho mượn cuốc về đào lỗ lên miếng đất trống phía sau lớp, chuẩn bị hạ cây xuống.
Chúng tôi vừa hò reo vừa túa ra ngoài, ba chân bốn cẳng chạy đi tim` dì Ba. Dì Ba là người trông kho dụng cụ lao động của trường, trong đó chất đầy những cuốc, xẻng, xà beng, thùng đổ rác, xô xách nước… Dì tính tình cởi mở, dễ gần, sẵn sàng cho chúng tôi mượn bất cứ dụng cụ cần thiết nào vào bất kỳ lúc nào. Nhưng ngược lại, dì rất nghiêm khắc trong chuyện bảo quản. Lớp nào trực quét sân trường mà trả thiếu một cây chổi thôi là đã chết với dì. Dì báo ban giám hiệu, báo giáo viên chủ nhiệm truy ra cho bằng được. Đứa nào làm mất thì phải đền. Không tìm ra kẻ làm mất thì lớp phải trích quỹ ra mua chổi mới. Mượn xẻng, khi trả, xẻng phải sạch. Đứa nào làm biếng, không chịu rửa xẻng trước khi mang tới kho, không bao giờ dì nhận. Tôi từng là nạn nhân của dì, mỗi lần nghĩ lại còn thấy mắc cỡ. Nhưng trong chúng tôi không đứa nào giận dì lâu. Bởi vì, đứa nào cũng thấy nhờ vậy mà kho dụng cụ trường tôi luôn luôn đầy đủ, cần gì có nấy.
Thầy Dân kêu chúng tôi đào mười hàng, mỗi hàng năm lỗ. Tôi đào cái lỗ của tôi ở chính giữa lô đất, hy vọng rằng nếu có gió bão hoặc có gà vịt hay học sinh buổi chiều chạy ngang thì những hàng cây phía ngoài bị gãy, còn cái cây của tôi sẽ chẳng hề gì.
Khi tổ một và tổ hai đem cây con về, thầy Dân hướng dẫn chúng tôi cách rọc bao ni-lông bọc ngoài sao cho khỏi rớt lớp đất bám chung quanh rễ. Tôi giành lấy một trong những cây tốt nhất đem đặt vào lỗ của mình. Thằng Chí bép xép ở tổ hai chạy theo, cự:
– Cây này tao xí phần rồi! Chính tay tao đem từ văn phòng về!
Tôi gạt phắt:
– Kệ mày! Đứa nào nhanh tay đứa đó lấy!
Thấy tôi làm dữ, Chí đành phải chạy đi chọn cây khác.
Nhưng tôi bị hố to.
Sau khi trồng cây xong, thầy Dân giao cho mỗi tổ chăm sóc một hàng. Bắt đầu từ hàng ngoài cùng là tổ một, kế đến là tổ hai, cứ vậy mười hàng giao cho mười tổ. Tréo ngoe làm sao, cái cây “chiến” của tôi lại nằm trong hàng của tổ sáu. Tôi càng đau lòng hơn nữa khi hình lại hàng cây của tổ năm tôi chẳng có cây nào ra hồn cả. Cây thì nhỏ xíu, thấp lè tè, cây thì lơ thơ có hai, ba chiếc lá.
Thằng Đại giao cho tôi cây ngoài rìa. Tôi không chịu. Tôi đòi cây ở giữa, tức là cây của thằng Quang. Quang là nhà sinh vật nhưng nó chỉ mê động vật còn thực vật thì nó không tha thiết lắm, giao cây nào nhận cây nấy, không kỳ kèo lôi thôi như thằng Chí.
Khi các tổ đã chia cây xong, chúng tôi chạy đi tìm cây khô về làm hàng rào. Chúng tôi bẻ cây khô thành từng đoạn ngắn cắm quanh gốc cây.
Đại rào cây của nó xong còn chạy qua rào phụ nhỏ Hiền. Nó cắm cây khô san sát, ken dày như tấm phên, coi rất chắc. Hàng rào của Quang còn “chì” hơn. Nó buộc dây chằng chịt từ dưới lên trên chung quanh các khúc cây khô, trông kiên cố như một pháo đài. Hàng rào của Bảy cũng thuộc loại “chiến”. Chân cẳng nó vậy mà nó cũng cà nhắc đi lượm từng viên gạch về chắn quanh gốc cây. Chỉ có hàng rào của tôi là sơ sài. Tôi nhặt những đoạn cây cong queo do tổ sáu vứt ra, cắm qua loa quanh gốc bạch đàn rồi tót ra trước cửa lớp chơi trò tâng bóng với tụi thằng Tú. Thật ra thì cái tính biếng nhác của tôi độ rày đã giảm bớt nhiều kể từ ngày quê mặt với thằng Tin sau vụ rửa chén không thành công và nhất là sau chuyện đùn cho Bảy trực sinh. Nhưng hôm nay, khi thấy cây bạch đàn “ruột” mà mình o bế ngay từ đầu tới phút: Dt lại lọt qua tổ sáu, tôi đâm nản và chẳng mặn mà gì với chuyện rào cây nữa.
Tôi đang chơi bóng say sưa thì Đại chạy tới:
– Mày rào gì kỳ vậy?
– Gì đâu mà kỳ!
– Mày rào vậy gà nó vặt trụi hết lá cho coi!
Chẳng lẽ mình chịu lép vế trước mặt tụi thằng Tú! Tôi làm mặt lạnh:
– Kệ tao! Cây tao, tao lo!
Nhưng tôi chưa kịp lo thì sáng hôm sau, lúc tôi đang ngồi ôn bài đầu giờ thì Bảy từ ngoài vườn cây chạy vô báo một tin sét đánh:
– Huy ơi, cây của mày gà ăn trụi hết rồi!
Tôi bàng hoàng phóng ra vườn.
Giữa những cây “còn nguyên” thì cây của tôi “điêu tàn” một cách thảm hại. Hôm qua, so với trong tổ thì cây của tôi không nhất cũng nhì nhưng hôm nay thì nó trụi lủi, không còn lấy một chiếc lá con. Những nhánh cây mỏng manh, khẳng khiu hệt bộ xương khô, ngó phát chán.
Thằng Đại nói y như thánh! Tôi nhớ lại chuyện hôm qua và tự nguyền rủa mình không tiếc lời. Đồng thời một sự lo lắng xâm chiếm lòng tôi. Hôm qua thầy Dân nói đến cuối năm học, ngoài việc tổng kết điểm trực sinh, thầy còn căn cứ vô kết quả chăm sóc cây của từng học sinh để xếp loại lao động. Mới trồng có một ngày mà cây của mình đã tả tơi như vậy, chưa biết có sống nổi không, nói gì đến cuối năm! Tôi rơi vào trạng thái buồn rầu trong suốt buổi học, không màng gì đến lời thầy giảng, đầu óc loay hoay nghĩ cách “cứu” mình.
Khi tiếng trống tan học vang lên, tôi vẫn xếp hàng đàng hoàng nhưng sau đó, tôi không đi thẳng ra cổng mà nấp đằng sau căn-tin. Dòm qua kẽ hở, tôi thấy Bảy đang dáo dác tìm tôi, mặt mày nó đầy vẻ ngạc nhiên. Tìm một hồi không thấy tôi, nó khập khiễng ra về, vừa đi vừa ngó lại đằng sau.
Đợi cho sân trường vắng ngắt, tôi rời khỏi chổ nấp, lộn lại chổ vườn cây.
Tôi đứng quan sát một hồi, thoạt đầu hơi lưỡng lự nhưng rồi tôi tặc lưỡi ngồi xổm xuống đất lấy tay moi gốc cây của mình lên. Xong tôi lại đào một cây khác trong hàng của tổ chín, rồi đổi chỗ hai cây lẫn nhau. Tôi không đánh tráo cây “ruột” của tôi bên tổ sáu vì hai hàng nằm kế nhau, dễ bị lộ. Còn ở tổ mười, sự gian lận cũng dễ bị phát hiện vì hàng cây tổ mười nằm ngoài rìa. Tôi chọn tổ chín, nhưng cũng đủ ranh mãnh để không đánh tráo cây tốt nhất. Tôi đào cây tốt vừa vừa, hy vọng chủ nhân của nó không để ý, và nếu để ý, cũng không làm to chuyện.
Xong xuôi đâu đó, tôi phủi tay, sung sướng ra về.
Sáng hôm sau, tôi cố ý đi trễ. Đợi cho tiếng trống báo hết giờ ôn bài, tôi mới lò dò vô lớp. Chẳng có sự xôn xao nào cả, mấy đứa bên tổ chín vẫn cười giỡn rần rần như mọi khi. Tôi ôm tập về chổ ngồi, bụng mừng thầm.
Thấy tôi, Bảy hỏi liền:
– Hôm qua lúc ra về mày đi đâu mà tao tìm muốn chết không thấy?
Tôi đáp, vẻ lơ đãng:
– Tao ở lại tim` cây viết.
Tưởng là xong chuyện, ai dè trong giờ chơi, thằng Tấn la toáng lên:
– Đứa nào đổi cây của tao? Đứa nào chơi xấu vậy?
Phát hiện động trời đó lập tức gây ồn ào kinh khủng. Cả lớp chen nhau uà ra vườn. Thằng Bảy đi đầu. Nó chân cẳng vậy mà lẹ dễ sợ, thót ba cái là đã ra tới ngoài hè. Mấy cái chuyện ly kỳ này hợp với máu “điệp viên” của nó lắm.
Tôi tính ở lì trong lớp, nhưng nghĩ tới nghĩ lui thấy làm vậy khác chi “lạy ông con ở bụi này” nên lò dò ra theo, có điều tôi đi tụt lại sau lưng tụi bạn, trống ngực đập loạn xà ngầu.
Bảy liếc qua một vòng đã biết ngay ai là thủ phạm và đồng thời cũng hiểu tại sao hôm qua tôi mất tích một cách bí mật lúc ra về. Nó ngước nhìn tôi, bằng ánh mắt không biết là thông cảm hay trách móc.
Đại, Quang, Hiền cũng nhanh: Dng hiểu ra vấn đề, nhưng tổ tôi chưa ai nói gì thì thằng Hải tổ bốn hét ầm lên:
– Cái cây thằng Huy hôm qua trụi lủi sao bữa nay lá quá trời vậy nè!
Số là cây của tôi nằm kế cây của Hải nên chuyện “kỳ diệu” của tôi không thể nào che mắt được nó.
Mọi chuyện thế là lở vỡ.
Trong khi Tấn nhào tới cây của nó thì tôi rút êm vô lớp, giả vờ ngồi đọc sách. Ngoài kia, thằng Đại thay mặt tôi xin lỗi thằng Tấn, và sau đó cây chỗ nào trả về chỗ đó. Tôi tiếp tục làm chủ cây bạch đàn trụi lá.
Nhưng điều đó bây giờ không làm tôi phiền muộn lắm. Cái đáng sợ là sau khi vụ đánh tráo bị khui ra, tụi bạn trong lớp nhìn tôi với ánh mắt chế giễu khiến tôi xấu hổ muốn chết.
Bữa đó, bầu không khí trong tổ tôi lặng lẽ như đưa ma. Bảy và Quang ngồi cạnh tôi im lìm suốt buổi học. Nhỏ Hiền thì cặm cụi chép bài, không hề ngó tôi lấy một cái. Chỉ có Đại bực bội lên tiếng:
– Mày làm xấu mặt cả tổ!
Lần đầu tiên, tôi không cãi lại thằng Đại. Tôi cố tập trung nghe giảng mà sao vẫn thấy hai tai nóng ran.
Hậu quả việc làm của tôi không dừng lại ở đó.
Vì bị đào lên lấp xuống nhiều lần, qua ba bữa sau là hai cây bạch đàn của tôi và thằng Tấn đều chết khô. Cả tổ chín kịch liệt kết tội tôi. Còn thằng Hùng, lớp phó lao động, thì nhanh: Dng thông báo cho thầy Dân.
Thầy Dân bắt tôi đóng hai đồng bốn mươi xu để mua lại hai cây bạch đàn, đồng thời kêu tôi viết tự kiểm để đọc trước lớp.
Nghe vậy, tôi buồn kinh khủng. Buồn nhất là thầy Dân đối xử với tôi “cạn tàu ráo máng”, không đếm xỉa gì đến việc tôi là học trò xuất sắc môn văn của thầy.
Đóng tiền mua lại cây con thì tôi không ngán. Tôi chỉ ngán cái màn đọc tự kiểm trước lớp. Nhưng ngán thì ngán, tôi cũng chẳng có cách nào tránh được.
Đứng ra nhận khuyết điểm và hứa sửa chữa trước hàng mấy chục con mắt thật chẳng phải chuyện dễ dàng. Tôi cứ lóng nga lóng ngóng, hai tay bám cứng mép bàn của tổ một, không chịu đứng xích ra giữa lối đi như lời thầy Dân bảo. Mặt đỏ như tôi luộc, đầu cúi gằm xuống đất, tôi ấp a ấp úng đọc từng chữ trong tờ tự kiểm.
Ngắc ngứ mãi một hồi, tôi cũng làm xong “nhiệm vụ” và chạy vụt về chỗ ngồi, nỗi hổ thẹn không để đâu cho hết. Tôi gục mặt trên bàn tự hứa với mình là từ nay đến già cũng không để xảy ra lỗi lầm tương tự nữa.
Có một bàn tay đặt trên vai tôi. Và tiếng nói của Bảy vang lên ấm áp:
– Thôi, đừng buồn nữa, Huy ơi!
*
* *
Trong buổi họp chi đội sau đó, tôi lại bị đóng góp một trận nữa, mặc dù tôi chưa phải là đội viên. Người lên án tôi mạnh mẽ nhất không phải mấy đứa bên tổ chín mà là thằng Hùng chi đội trưởng kiêm lớp phó lao động.
Không phải nó chỉ phê bình tôi chuyện đánh tráo cây của Tấn mà còn lôi ra chuyện tôi giành cây tốt với Chí, chuyện tôi làm hàng rào cẩu thả.
Năm ngoái cũng chính nó là đứa hung hăng nhất trong ban chỉ huy chi đội không đồng ý kết nạp tôi vô đội, với lý do là tôi thường xuyên bỏ trực lớp, còn những buổi làm vệ sinh sân trường thì tôi chỉ cầm chổi huơ hai, ba cái cho có lệ và không bao giờ có mặt đến phút: Dt.
Chính vì nó mà bây giờ thằng Tin lại vô đội trước tôi. Ba tôi bận rộn suốt ngày it’ để ý đến chuyện đó, nhưng mỗi lần thấy thằng Tin mang khăn quàng đỏ lượn qua lượn lại trước mắt, thì ông lại rầy tôi:
– Ở trường, mày sinh hoạt ra sao mà đến giờ cũng chưa được kết nạp vô đội, thằng to đầu kia?
Dĩ nhiên là tôi chẳng sung sướng gì về sự qua mặt của thằng Tin. Ngay từ đầu năm nay tôi định bụng sẽ phấn đấu vô đội. Nhưng tôi chưa kịp phấn đấu thì đã xảy ra chuyện xui xẻo này. Nghe Hùng “phan” tới tấp, tôi giận muốn ứa gan nhưng đành cứng họng. Bởi vì nó nói đâu có đó, chuyện rành rành giữa ban ngày ban mặt, ai chẳng biết.
Nhưng tôi giận Hùng chưa bằng giận Kiến Lửa. Nhân chuyện này, nó lại bò lên bản tin đốt tôi một phát. Vẫn một thứ thơ dỡ ẹc:
Cây mình chẳng lo rào
Để cho gà ăn trụi
Lại đào cây người khác
Đánh tráo cây của mình
Hơn nhau vì sóc vì chăm
Không ai hơn nhau vì chôm vì chĩa.
Lần này, Kiến Lửa đặt thơ năm chữ, cũng chẳng có vần điệu gì ra hồn. Đã vậy, phần cuối lại thêm vô hai câu ngang phè. Rõ ràng là nó bắt chước câu tục ngữ “Bà con vì tổ vì tiên, không ai bà con vì tiền vì gạo” trong bài “Tục ngữ, ca dao về gia đìng và xã hội” học hồi đầu năm. Người ta thì nói “chăm sóc” còn ở đây nó lại viết “vì sóc vì chăm” nghe trái lỗ nhĩ không thể tả. Nhưng tức nhất là nói kêu tôi “chôm chĩa”, làm như tôi là đồ ăn cắp chuyên nghiệp không bằng!
Kỳ này không chỉ mình tôi tức. Bài thơ của Kiến Lửa chạm nọc đến toàn tổ năm. “Cậu ông trời” bênh tôi ra mặt. Bài thơ xuất hiện vào đầu tiết thứ nhất thì đến giờ ra chơi, Đại đã to tiếng phản đối:
– Tờ báo của chúng ta đăng bài này là không đúng. Bạn Huy đã nhận khuyết điểm trước lớp và đã được góp ý kiến trong chi đội rồi, do đó bài thơ của bạn Kiến Lửa là không cần thiết và thiếu tinh thần xây dựng.
Sự công kích bài thơ của “cậu ông trời” khiến tôi hả hê, mặc dù theo tôi đáng lẽ Đại phải “phang” vào hai chữ “chôm chĩa” mà Kiến Lửa đã cố ý dùng một cách bừa bãi để bôi bác tôi. Nhưng thôi, vậy cũng được.
Nhỏ Kim Liên, chủ bút bản tin, lộ vẻ hoang mang khi thấy cả lớp không ai có ý kiến gì khác Đại. Chỉ có thằng Chí bép xép là lên tiếng, nhưng lần này nó bép xép nghe được:
– Tôi đồng ý với bạn Đại! Kỳ này Kiến Lửa đốt bậy!
Kim Liên càng lúng túng. Nó chưa biết phải đối đáp ra sao thì Hùng bồi luôn một phát:
– Tôi cũng đồng ý với bạn Đại. Đáng lẽ tờ báo không nên đăng bài thơ vừa rồi!
Ý kiến của Hùng kết thúc luôn câu chuyện. Ra chơi vô, tôi không thấy bài thơ đáng ghét đó nằm trên bản tin nữa. Có lẽ Kim Liên xé đi rồi.
Hôm nay, thiệt tôi hên hết biết! Cả Đại, Chí lẫn Hùng, những “đối thủ” của tôi xưa nay, bỗng dưng đứng về phe tôi khiến tôi ngại nhiên một cách thú vị. Nhưng dù sao đi nữa, điều đó cũng không làm tôi quên được nỗi ấm ức với “kẻ thù giấu mặt” là Kiến Lửa, mày là ai mà mày đốt tao hoài vậy?
Tôi bỏ công cả tuần lễ để truy tìm tông tích Kiến Lửa nhưng chẳng có kết quả gì. Tôi hỏi dò nhiều đứa nhưng chẳng đứa nào biết Kiến Lửa là ai. Đứa biết thì lại không chịu hé miệng.
Kẹt quá, tôi đành hạ mình đi hỏi Kim Liên. Nó sầm mặt vẻ quan trọng:
– Đó là bí mật báo chí, tôi không nói được!
Tức thiệt tức!
Cho đến hôm học môn hóa của cô Hết thì bí mật mới tình cờ “bật mí”.
Nhỏ Kim Hà, sau khi lên bản trả bài xong, lúc về chổ ngồi chợt làm rơi một tờ giấy trong tập xuống đất. Nó cúi xuống chưa kịp lượm thì thằng Chí ngồi đầu bàn đối diện đã nhanh tay chộp lấy. Kim Hà đòi cách gì nó cũng không chịu trả. Cũng như tôi, Chí vốn không ưa Kim Hà. Nó có tật bép xép, hay nói chuyện trong lớp, còn Kim Hà là lớp phó trật tự cho nên nó bị Kim Hà “chiếu tướng” luôn.
Đọc xong tờ giấy, Chí vo tròn lại, ném xuống chỗ tôi. Tôi tò mò giở ra coi. Thì ra đó là bản nháp của bài thơ “Nhắn ai”.