Chương 7:
Từ hôm phát hiện ra Kim Hà là tác giả của hai bài thơ “hại” tôi, trong đầu tôi lúc nào cũng loay hoay những ý nghĩ trả đũa.
Nhưng tính tới tính lui hoài mà tôi vẫn chưa nghĩ ra cách trả đũa nào thích hợp. Nó là con gái, không thể dùng vũ lực với nó như đối với thằng Chí được. Nó lại là lớp phó trật tự, lơ tơ mơ một chút là chết với nó liền.
Rốt cuộc, tôi chọn phương pháp trả đũa an toàn nhất: dùng vũ khí của nó để đập lại nó. Cái gì chớ làm thơ đối với tôi là chuyện dễ như bỡn. Thuở nhỏ, tôi đã từng say mê đọc Lục Vân Tiên bỏ ăn bỏ uống đến nỗi má tôi phải lấy cuốn sách giấu đi. Đọc Truyện Kiều, tôi khoái Từ Hải:
Râu hùm, mày én, mày ngài
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao
Đường đường một đấng anh hào
Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài
Mỗi khi đọc lên, tôi nghe “đã” hai cái lỗ tai làm sao!
Nhưng tôi thích nhất là Chinh Phụ Ngâm. Tôi khoái những câu thơ như:
Chín tầng gươm báu trao tay
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.
hoặc:
Giã nhà đeo bức chiến bào
Thét roi cầu Vị ào ào gió thu.
Nhưng cái làm tôi mê Chinh Phụ Ngâm là thể thơ song thất lục bát. Tôi thấy thể thơ này nó hay hay, ngồ ngộ, đọc lên nghe êm tai làm sao. Tôi cũng đã từng làm cả chục bài theo thể thơ này gởi báo Khăn Quàng Đỏ. Tuy báo Khăn Quàng Đỏ chưa đăng của tôi bài nào nhưng đã ghi tên tôi vô mục “Hộp thư nhận được” mấy lần rồi. Chỉ riêng cái khoản đó, tôi cũng đã ăn đứt nhỏ Kim Hà. Nó làm gì mà được đăng tên lên báo! Đó là chưa kể nhà tôi còn có cả một tập Thơ Ca Cách Mạng dày cộm, rồi nguyên một tập Thơ Tố Hữu của Nhà xuất bản Giáo Dục, in giấy trắng đàng hoàng.
Với “vốn liếng” dồi dào đó, tôi thừa sức tính chuyện phục thù.
Nhỏ Kim Hà thuộc tổ bảy. Nó ngồi ở đầu bàn dãy thứ hai bên kia, đối diện với thằng Chí, tức là ngay trong tầm quan sát của tôi. Nhưng muốn làm thơ “đập ” nó thì phải tìm ra khuyết điểm của nó.
Ngày nào tôi cũng chong mắt về phía tổ bảy rà qua rà lại như máy rà mìn mà chẳng phát hiện được một sơ hở nào ở Kim Hà. Về trật tự, đương nhiên nó là “số một” rồi. Về học tập, nó lại là học sinh giỏi ba năm liền. Ở các mặt khác cũng vậy. Nằm trong ban cán sự lớp và ban chỉ huy chi đội nên việc gì nó cũng gương mẫu đi đầu. Khó ai moi được khuyết điểm của nó. Trong suốt mười ngày liền, tôi chẳng tìm được một đề tài nào về đối thủ để làm thơ.
Trong lúc tôi hoàn toàn tuyệt vọng, định gạt phắt chuyện phục thù ra khỏi đầu óc để tập trung vô việc học tập, thì bỗng xảy ra một sự kiện đáng mừng.
“Đối thủ” của tôi, khi bước ra khỏi bàn lên trả bài sinh vật của thầy Hiển, không biết lóng ngóng làm sao mà vấp phải chân bàn ngã “oách” xuống đất khiến cả lớp cười rầm. Trong khi nó lóp ngóp bò dậy, mặt đỏ tới mang tai thì tôi sướng rơn trong bụng. Thế là tôi có ngay một đề tài: “Cô bé chụp ếch”.
Ngay buổi học nhóm hôm sau, tôi lôi kéo Bảy và Quang vào âm mưu phục thù của tôi. Tôi đề nghị mỗi đứa sẽ lần lượt đặt một câu thơ cho bài “Cô bé chụp ếch”.
Thoạt đầu Quang không chịu. Nó nói:
– Kim Hà đâu phải là đứa xấu mà đặt thơ châm chọc nó.
Tôi quắc mắt:
– Nhưng nó là Kiến Lửa. Nó đốt bậy!
Quang khăng khăng:
– Nhưng bài thơ đó đã xé bỏ rồi!
Cái thằng tự nhiên lại đâm ra cứng đầu! Tôi đành phải thuyết phục nó bằng cách khác:
– Thiệt ra chuyện châm chọc Kim Hà là chuyện phụ. Cái chính là mình tập làm thơ. Học sinh muốn giỏi văn phải tập làm thơ, mày hiểu chưa?
Thằng Quang nghe nói đến “giỏi văn” y như con nít nghe đến kẹo. Nó xiêu liền:
– Vậy thì được!
Bảy thì đồng ý ngay từ đầu. Không phải nó ghét gì Kim Hà mà vì nó tò mò, muốn làm thơ thử một lần cho biết.
Muốn cho Bảy và Quang cộng tác, tôi lại phải giảng giải cho hai đứa biết thơ song thất lục bát là gì, câu nào bảy chữ, câu nào tám chữ, rồi chữ nào ăn vần với chữ nào, đủ cả đầu đuôi xuôi ngược.
Thấy nói đến ráo nước miếng mà hai đứa vẫn ngồi ngơ ngơ ngác ngác, tôi tức mình lấy cuốn Chinh Phục Ngâm ra đọc cho chúng nghe để dẫn chứng.
Tôi mới đọc được vài ba câu thì Bảy ngắt ngang:
– Thôi, mày cho tao mượn về nhà đọc đi!
Tôi cụt hứng, gắt:
– Mày nghe không lo nghe, cái gì cũng đòi mượn về nhà!
Bảy cười hì hì:
– Đem về nhà tao mới nghiền ngẫm kỹ được chớ nghe mày đọc loáng thoáng tao đâu có nhớ.
Quang sợ mất phần, hùa theo:
– Tao nữa! Thằng Bảy coi xong, mày cho tao mượn nghen!
Thấy hai đứa mỗi lúc một lạc đề, tôi vội gấp cuốn sách lại, tuyên bố:
– Khi nào làm xong bài thơ “Cô bé chụp ếch”, tao sẽ cho tụi bây mượn.
Quang láu táu:
– Ừ, làm lẹ lẹ đi!
Thế là tôi biến buổi học văn thành buổi làm thơ đả kích nhỏ Kim Hà.
Tôi đằng hắng lấy giọng rồi đọc câu đầu:
– Có cô bé tính hay bộp chộp.
Quang vỗ tay khen:
– Hay quá!
Tôi cưới khoái chí:
– Hay gì mà hay! Tụi mày làm tiếp câu thứ hai đi!
Bảy và Quang thừ mặt ra nghĩ ngợi. Bảy thì nhăn mày nhíu trán y như đang làm hề trên sân khấu. Còn Quang thì hết gãi đầu đến gãi cổ làm như câu thơ nấp đâu chỗ đó vậy. Tôi ngồi chờ sốt cả ruột mà hai đứa vẫn chưa “rặn” ra được một chữ nào, trong khi trong đầu tôi nảy ra một lúc hai, ba câu, câu nào cũng hay.
Chờ thêm một lúc, chịu hết nổi, tôi liền thúc:
– Nghĩ lẹ lẹ lên chớ! Làm thơ mà như tụi mày thì một năm chưa được một bài.
Quang tặc lưỡi:
– Tao nghĩ ra lâu rồi nhưng không biết có đúng không nên tao chưa dám nói!
Tôi sáng mắt:
– Đâu? Mày đọc thử nghe coi! Đọc cả câu đầu nữa!
Quang ngập ngừng một thoáng rồi đọc:
– Có cô bé tính hay bộp chộp
Tự nhiên té nhủi giữa đường lăn quay.
Đọc xong, nó nhìn tôi với vẻ dò hỏi. Tôi nhăn nhó:
– Tao nói rồi mà mày không chịu hiểu gì hết. Thơ song thất lục bát là phải làm xong hai câu bảy chữ rồi mới tới hai câu sáu tám. Tao làm một câu bảy chữ thì mày phải làm tiếp một câu bảy chữ nữa mới đúng, sau đó mới tới một câu sáu, một câu tám. Ở đây, mới vô đề chưa chi hết mày đã nhảy phóc ngay xuống câu tám đâu có được!
Thấy tôi nổi nóng, nó liền đề nghị:
– Vậy thì mày bỏ bớt chữ cuối đi! Còn lại đúng bảy chữ.
Nó đề nghị mà y như chọc tức tôi. Tôi hét ầm lên:
– Thơ gì kỳ vậy? Vậy là câu thơ thành “Tự nhiên té nhủi giữa đường lăn” hả?
Biết mình sai, Quang ngồi im re. Tôi ngó Bảy:
– Sao, mày làm được câu nào chưa?
Thấy tôi hét thằng Quang dữ quá, Bảy rụt rè:
– Rồi, nhưng… không biết đúng hay sai, để tao đọc thử mày nghe… À, à… nó như vầy… “Có cô bé tính hay bộp chộp. Vấp chân bàn, cô té thiệt đau”.
Cũng như Quang, sau khi đọc xong câu thơ mình sáng tác, Bảy nhìn mặt tôi thăm dò phản ứng.
Thấy tôi ngồi im, nó mừng lắm, hỏi:
– Làm vậy đúng không, mày?
– Đúng cái khỉ mốc!
Tôi bực mình “đốp” một phát khiến Bảy chưng hửng. Thực ra, câu thơ của Bảy có khá hơn của Quang chút xía, nhưng cũng không đạt yêu cầu. Thấy hai “học trò” của mình chậm hiểu quá xá, tôi đâm nản không thèm hò hét như khi nãy khiến Bảy tưởng bở.
– Tao đã nói là chữ cuối của câu bảy trên phải vần với chữ thứ năm của câu bảy dưới! – Tôi giải thích – Ở đây, chữ cuối câu bảy trên là “chộp” thì chữ thứ năm câu bảy dưới phải là chữ nào có vần “ộp” hay “ốp” mới được. Mày lại chơi chữ “té” nghe chẳng giống ai.
Bảy chừng như hiểu ra, nó gật gù:
– À, à, tao nhớ rồi. Mày có nói mà tao quên mất. Thôi để tao làm lại câu khác.
Tôi khoát tay:
– Thôi khỏi! Để mình tao làm được rồi!
Buổi “tập làm thơ” kết thúc một cách đáng buồn, thật chẳng bì với những buổi tập làm văn.
Sau khi “đuổi” hai ông bạn quí ra về, tôi quay vô với bài thơ dang dở của tôi.
Nhẩm tới nhẩm lui, tẩy tẩy xóa xóa một hồi, tôi cũng làm xong bài thơ. Tôi đọc đi đọc lại một cách khoái trá:
Có cô bé tính hay bộp chộp
Vậy cho nên té độp giữa đường
Thật là một chuyện phi thường
Con gái mà té khó thương quá chừng
Cô bé đó tự xưng là kiến
Sẽ có ngày bị liệng xuống ao
Dù cho vùng vẫy thế nào
Con kiến cũng chết vì nào ai thương!
Ở hai câu: Dt, tôi biết lặp lại hai chữ “nào” là không hay lắm nhưng chẳng nghĩ ra được chữ nào hay hơn. Lúc đầu tôi định viết “Con kiến cũng chết vì ao nước đầy”, nhưng câu này không “ác liệt” bằng câu kia. “Vì nào ai thương” nói lên được sự không ưa của cả lớp, hoặc ít ra là của tôi và thằng Chí, đối với “đối thủ”.
Sau khi ngâm nga chán, tôi lại loay hoay vắt óc cố nghĩ một bút hiệu cho oai, không oai hơn thì ít ra cũng oai bằng Kiến Lửa. Lúc đầu, tôi định lấy bút hiệu là Ong Vò Vẽ. So với kiến lửa thì ong vò vẽ chích đau gấp triệu lần. Nhưng kẹt một nỗi, ong chích ai thì chích chứ không khi nào chích kiến. Như vậy thì Kiến Lửa đâu có ngán. Tôi định lấy bút hiệu là Ao Hồ, vì kiến rất sợ nước, bị liệng xuống ao thì chìm lỉm liền. Bút hiệu này còn có cái hay là ăn khớp với nội dung của bài thơ. Nhưng suy đi tính lại, tôi thấy chữ Ao Hồ không oai chút nào, lại có vẻ mất vệ sinh làm sao! Tưởng bí, không dè tôi sực nhớ ra kiến cũng kỵ lửa. Thế là ngay lập tức, tôi chọn bút hiệu Lửa Thần. Lửa thường mà đốt, kiến cũng chết trụi nữa là lửa thần!
Tôi hồ hởi mang bài thơ của Lửa Thần tới lớp đưa cho nhỏ Kim Liên, yêu cầu nó đăng ngay ngày mai.
Tối đó, tôi trằn trọc hoài không sao ngủ được. Tôi cười thầm trong bụng khi nghĩ đến cảnh cả lớp xúm quanh bài thơ của tôi vừa đọc vừa cười ầm ĩ, còn nhỏ Kim Hà thì ngồi gục mặt xuống bàn khóc sưng cả mắt.
Ngày hôm sau, tôi tìm mỏi con mắt trên bản tin nhưng chẳng thấy bài thơ tôi đâu. Tôi bực lắm nhưng ráng nhịn. Bởi vì năm ngoái khi còn làm chủ bút bản tin, tôi cũng đã từng “ngâm” bài của tụi bạn đến ba, bốn ngày sau mới đăng, vì phải đăng lần lượt theo thứ tự ngày gởi.
Nhưng rồi ba, bốn ngày trôi qua, rồi một tuần lễ mà bài thơ của tôi vẫn mất tích một cách bí mật.
Không dằn lòng được nữa, tôi chạy đi tìm nhỏ Kim Liên, cự nự:
– Bạn bỏ bài thơ của tôi đâu rồi? Sao chưa chịu đăng lên?
Nó đáp tỉnh khô:
– Bài đó không đăng được!
Tôi giận tái cả mặt:
– Sao không đăng được? Bạn đừng ỷ mình phụ trách bản tin rồi muốn làm gì thì làm! Thơ của Kim Hà dở ẹc bạn cũng dán lên, còn thơ của tôi đúng vần đúng luật thì lại không đăng! Rõ ràng là bạn thiên vị!
Kim Liên phớt lờ sự kết tội của tôi, nó nói:
– Thơ của bạn đúng là hay hơn thơ của Kim Hà. Nhưng thơ của bạn đả kích cá nhân chớ không phê bình để tiến bộ, tôi nhất quyết không đăng!
Tôi tức nổ đom đóm mắt:
– Bạn không đăng thiệt phải không?
– Thiệt!
– Được rồi! – Tôi gầm ghè – Tôi sẽ báo với thầy Dân!
Kim Liên nghinh mặt:
– Thách bạn báo thầy Dân đó!
Tôi chìa tay ra:
– Vậy bạn trả bài thơ cho tôi đi!
Kim Liên chạy vô chỗ ngồi lục cặp một hồi rồi lấy bài thơ ra trả tôi:
– Đây nè! Tôi cóc thèm giữ bài thơ vô duyên này!
Tôi cầm bài thơ, bỏ đi không thèm nói lấy một tiếng.
Nhưng tôi không tìm thầy Dân mà tìm thằng Đại. Tôi nhớ lần trước Đại đứng ra bênh tôi công kích bài thơ của Kiến Lửa nên tôi chắc mẩm lần này nó sẽ về phe tôi. Không dè sau khi nghe tôi kể lại sự tình và đọc xong bài thơ của tôi, nó gật gù nhận xét:
– Kim Liên không đăng bài thơ này là đúng. Bài thơ của mày đả kích cá nhân chớ không nhằm xây dựng.
– Tụi mày không công bằng! Thơ của nhỏ Kim Hà cũng đả kích cá nhân sao lại đăng được?
Đại vỗ vai tôi:
– Hai trường hợp khác nhau xa chứ! Thơ của Kim Hà phê phán những khuyết điểm mà mày vi phạm có ý thức. Còn chuyện vấp té của nó đâu có thể coi là một khuyết điểm. Trượt chân trượt tay là chuyện bình thường, có gì là xấu đâu! Đó là chưa kể mày đòi liệng nó xuống ao cho nó chết đuối chơi. Nội chuyện đó thôi là đã thiếu tinh thần xây dựng rồi!
Nghe Đại thuyết một hồi, tôi thấy bùi tai, liền xếp bài thơ đút vô túi áo. Nhỏ Hiền trông thấy, vội chìa tay ra:
– Huy có cái gì đó cho Hiền mượn coi đi!
Tôi bắt chước Kim Liên, làm mặt quan trọng:
– Bí mật báo chí, không coi được!
Nếu thằng Bảy có cái tật thấy thứ gì cũng đòi mượn về nhà thì nhỏ Hiền có tật thấy gì cũng đòi “cho mượn coi đi”. Thơ “đả kích cá nhân” hay ho gì mà “coi lại với coi đi!”
Chương 8:
Ở đời thiệt có lắm chuyện bất ngờ. Có những bài thơ như bài “Cô bé chụp ếch” tôi tha thiết muốn đăng lên bản tin thì không được đăng, trong khi đó có một bài thơ tôi không hề gởi thì nhỏ Kim Liên lại lấy đăng lên. Chính tôi là tác giả mà lại không hề hay biết gì về chuyện đó.
Đầu đuôi cũng do môn ngữ pháp mà ra.
Ở trong nhóm “ba bạn cùng tiến”, tôi chịu trách nhiệm về cả tập làm văn lẫn ngữ pháp. Nhưng ở môn tập làm văn, khó thấy rõ sự tiến bộ như ở môn ngữ pháp. Thứ nhất là vì môn tập làm văn cả tháng mới làm bài tập một lần, còn ngữ pháp thì tuần nào cũng có kiểm tra, không kiểm tra viết cũng kiểm tra miệng. Thứ hai là ở môn tập làm văn, hiếm có trường hợp nhảy vọt về điểm số. Đứa nào bài này được điểm bốn thì phải phấn đấu ghê gớm lắm, bài sau mới ngoi lên được điểm năm, giỏi lắm thì điểm sáu. Rồi lại phải ì ạch như trâu kéo cày suốt một thời gian dài nữa mới nói chuyện kiếm điểm bảy. Đó chưa kể đến trướng hợp tháng trước mới ngoi lên ngồi chưa nóng chỗ, tháng sau đã tụt xuống rồi. Cũng y như người ta đẩy xe bò lên dốc vậy. Phải nghiến răng nghiến lợi, toát cả mồ hôi hột mới nhích lên được một thước, vậy mà chỉ cần lơ đễnh sẩy chân một cái, là lại tụt đến hai, ba thước liền. Ở môn ngữ pháp thì mọi việc không nhất định phải như vậy. Tuần trước, vì chưa hiểu bài, chưa nắm các quy tắc, có thể bạn bị điểm hai. Nhưng tuần sau, nếu đã hiểu bài thấu đáo, bạn vẫn có thể đạt điểm chín, điểm mười như bất cứ ai.
Vì vậy mà thằng Đại thường xuyên chú ý điểm ngữ pháp của Bảy và Quang để theo dõi và đánh giá kết quả công việc của tôi trong nhóm.
Đối với Bảy thì tôi không ngại. Nó vốn giỏi toán nên tiếp thu những sự lắt léo trong môn ngữ pháp cũng khá nhanh. Trước đây, nó kém môn này là vì học không có phương pháp và không tập trung công sức nhiều. Riêng thằng Quang thì tôi đến méo mặt với nó. Nó vừa mất căn bản từ lớp dưới vừa không tập trung tư tưởng được, mặc dù nó rất siêng học. Trong những buổi học nhóm, bao giờ nó cũng đến rất sớm, khi thì ngồi chờ thằng Bảy qua, khi thì đợi tôi đánh xong ván cờ với thằng Tin. Sách vở nó lúc nào cũng gọn gàng, sạch sẽ. Vậy mà ngồi học được một lúc, đầu óc nó lại phiêu lưu ở đâu đâu tận Châu Phi, Mã Lai với những đàn kiến, đàn nhện quái quỷ. Nhét được những quy tắc rắc rối vô đầu nó quả không phải chuyện dễ.
Về “thành tích” ngữ pháp của Quang, tụi lớp 9A2, tức là 8A2 năm ngoái, thường kể lại câu chuyện sau đây.
Hồi học lớp 7, khi cô Thanh giảng bài “Bộ phận chủ ngữ” không biết Quang ngồi mơ mộng những gì mà lúc bị kêu lên bảng, nó đứng lớ ngớ như người mất hồn.
Cô Thanh viết lên bảng câu “Đàn chim bay” bảo nó phân tích, nó đứng gãi cổ gần nửa tiếng đồng hồ.
Biết đợi lâu hơn, thằng Quang cũng không làm được mà có khi cổ nó tóe máu nữa không chừng, cô Thanh liền giúp nó bằng cách gạch một đường tách đôi chữ “đàn chim” và chữ “bay”, rồi hỏi:
– Đàn chim là gì?
Ai cũng biết “đàn chim” là chủ ngữ, trừ Quang. Nghe câu hỏi “dễ” quá, nó mừng lắm, đáp:
– Đàn chim là động vật.
Nghiên cứu động vật vốn là nghề của nó mà! Ai dè cô Thanh nhăn mặt:
– Ai chẳng biết là động vật! Nhưng cô muốn hỏi em “đàn chim” giữ nhiệm vụ gì trong câu!
Quang lại sáng mắt:
– Thưa cô, đàn chim giữ nhiệm vụ bay ạ.
Cả lớp cười nghiêng cười ngửa. Cả cô Thanh cũng không nhịn được cười.
Vậy mà hai năm trôi qua, nó chẳng tiến bộ được một chút nào. Đối với nó, môn ngữ pháp còn “độc” hơn giống kiến Ốc-cô-phi-la nhiều.
Học chung với nó chừng mười phút, tôi biết ngay là nhà sinh vật mất căn bản trầm trọng từ những năm lớp dưới. Bài “Từ loại” đã học từ hồi lớp năm, lớp sáu, lên lớp bảy cũng ôn lại, vậy mà nó cứ lẫn lộn lung tung.
Tôi hỏi nó:
– Cái nhà là từ gì?
– Danh từ.
– Cuốn sách?
– Cũng danh từ.
– Xe hơi?
– Động từ.
Tôi ngạc nhiên:
– Tại sao xe hơi là động từ?
Nó đáp rất tự tin:
– Tại vì xe hơi chạy được! Cái gì chuyển động được thì cái đó là động từ chớ sao!
Cứ theo cái phương pháp suy luận ngớ ngẩn đó, Quang đi từ sai lầm này đến sai lầm khác. Tôi, với sự trợ giúp đắc lực của Bảy, đã phải làm đủ mọi cách để cho nhà sinh vật tối tăm đó hiểu được “xe hơi” là danh từ, còn “chạy” mới là động từ.
Đã vậy, nó lại mắc cái tật “máy móc”.
Khi tôi phân tích trong câu “Tôi đi học” thì “tôi” là chủ ngữ, “đi học” là vị ngữ hoặc trong câu “Đất nước ta tươi đẹp” thì “đất nước ta” là chủ ngữ còn “tươi đẹp” là vị ngữ, thì Quang cứ đinh ninh chữ nào đứng ở đầu câu đều là chủ ngữ ráo.
Do đó, khi thầy Dân kêu nó lên bảng phân tích câu “Giữa cánh đồng, người nông dân đang gieo mạ” thì nó vội vàng gán cho “giữa cách đồng” là chủ ngữ khiến cái điểm hai ngữ pháp cứ đeo đẳng tổ tôi hoài.
Trong khi tôi ngồi đỏ mặt tía tai vì tức và vì ngượng khi “cậu ông trời” liếc tôi. Nó không nói gì nhưng ánh mắt thì như muốn hỏi: “Mày kèm cặp thằng Quang kiểu gì lạ vậy?” làm tôi nhột dễ sợ.
Quang xách tập đi xuống chưa kịp ngồi vô chỗ, tôi gắt liền:
– Mày làm ăn kiểu gì lạ vậy?
Biết lỗi, Quang im re. Nhưng tôi không tha:
– Ai gieo mạ? Theo mày thì ai gieo mạ?
– Thì người nông dân.
Tôi nhăn nhó:
– Vậy thì người nông dân là chủ ngữ chớ! Sao mày lại nói là giữa cánh đồng? Thiệt chán cho mày!
Nhưng cái “ông học trò” của tôi không chịu dừng lại ở những khuyết điểm đó. Nó còn mắc thêm cái bệnh “suy nghĩ vẩn vơ”, không chú tâm vào điều gì lâu được. Ngồi học trong nhà mà nó cứ nghĩ đến chuyện ngoài trời. Chẳng hạn có lần tôi hỏi nó:
– Ví dụ bây giờ tao đặt 1 vị ngữ là “sủa”, mày thêm chủ ngữ vô cho thành câu được không?
Câu hỏi dễ ợt, ai chẳng biết chủ ngữ là “chó”, vậy mà nó ngồi im ru bà rù, lâu thiệt lâu. Tôi nóng ruột, thúc:
– Trả lời lẹ đi chớ! Câu hỏi dễ ợt mà nghĩ gì lâu quá xá cỡ vậy mày!
Ai dè nó lại nói:
– Mày biết giống chó Ét-ki-mô không? Chó Ét-ki-mô chính cống không bao giờ sủa như chó thường đâu nghen mày. Nó rú như chó sói, nghe khiếp lắm. Nhưng giống Ét-ki-mô, chó cái khôn hơn chó đực, vì vậy…
Té ra từ nãy đến giờ, nó không lo học ngữ pháp mà lo đi chơi ở Bắc cực. Tôi điên tiết, cắt ngang:
– Dẹp thứ chó Ét-ki-mô của mày đi! Học bài không chịu học, tối ngày cứ chó với mèo!
Nghe tôi hét, nó giật mình “tỉnh cơn mơ” và ngay lập tức đuổi bầy chó “rú y như chó sóí” kia ra khỏi tâm trí. Nhưng chứng nào tật nấy, hôm sau tôi viết ra giấy câu “Mùa xuân, chim bay đầy trời”, chưa kịp hỏi nó, nó đã hỏi tôi:
– Đố mày, chim gì thường được dùng để đưa thư liên lạc?
Tôi đập bàn ầm ầm:
– Dẹp! Dẹp!
Bình thường, tôi rất mê những câu chuyện kỳ lạ về động vật của Quang, nhưng vào những lúc như thế này, tôi không sao chịu đựng nổi. Rút kinh ngiệm, kể từ đó về sau, đặt câu cho nhà sinh vật phân tích, tôi chẳng dám rớ tới một con vật nào. Toàn những câu đoại loại như “Xe lửa qua cầu” hoặc “Hoa nở khắp vườn” mà thôi.
Nhưng rồi, mặc dù chậm chạp như sên bò, Quang cũng dần dần chứng tỏ được sự tiến bộ của mình. Khi làm bài tập, thỉnh thoảng nó cũng hay quên đầu quên đuôi nhưng không bao giờ nó bị điểm hai hay điểm ba như trước. Thường là nó đạt điểm năm trở lên. Cũng như Bảy, bây giờ nó không ngán môn ngữ pháp nữa. Thành tích đó khiến tôi sung sướng vô kể.
Nhưng “sự kiện” làm tôi nở mày nở mặt nhất là mới đây để cho Bảy và Quang nắm chắc được nội dung của bài “Câu có cụm chủ-vị làm chủ ngữ”, tôi đã làm bài thơ sau đây và bắt hai đứa chép vô tập:
Cụm chủ-vị khi làm chủ ngữ
Thường đằng sau có chữ “khiến cho”
Ví như: “Em bé nằm ho
Khiến cho cha mẹ phải lo suốt ngày”
Nhưng vị ngữ khi rày khi khác
Chữ “khiến cho” chưa chắc ở hoài
Đôi khi có một chữ “là”
Kéo theo sau nó cái toa “danh từ”
Lấy ví dụ: “Bạn hư hỏng quá
Là nỗi buồn của cả thầy cô”
Nếu đem “sự, cuộc, việc” vô
“Ngữ danh từ” bỗng bất ngờ hiện ra.
Bài ngữ pháp này là một trong những bài khó của học kỳ một. Trong lớp tôi, những đứa nắm vững ngay được bài này không phải là nhiều. Nhờ bài thơ của tôi, Bảy và Quang lập tức trở thành hai nhân vật trong cái nhóm thông thái ít ỏi đó.
Lúc ôn bài đầu giờ, tụi bạn ngồi chung quanh nghe Bảy và Quang lầm rầm đọc thơ, liền lên tiếng:
– Hôm nay học ngữ pháp chứ đâu học giảng văn! Tụi mày lộn rồi!
Tụi nó tưởng Bảy và Quang học bài “Hò Huế”. Quang ưỡn ngực, khoe:
– Ai chẳng biết bữa nay học ngữ pháp! Đây là bài thơ ngữ pháp của nhóm tao!
Mấy đứa kia nghe vậy, tò mò xúm lại coi. Lập tức nhận rõ được giá trị của bài thơ, chúng bao vây Bảy và Quang, năn nỉ xin chép.
Tôi chứng kiến quang cảnh náo nhiệt đó ngay từ đầu, lòng hãnh diện không thể tả.
Thằng Lâm vừa hí hoáy chép vừa hỏi:
– Ai làm bài thơ “độc” quá vậy mày?
Bảy chưa kịp trả lời thì thằng Chí đã bô bô ra vẻ hiểu biết:
– Thằng Huy làm chớ ai! Nó mà làm thơ thì số một!
Trời ơi! Sao cái thằng bép xép này hôm nay dễ thương quá vậy không biết! Nghĩ tới chuyện trước nay mình không ưa nó, lương tâm tôi tự nhiên cắn rứt quá chừng.
Nhưng khoái thì khoái trong bụng, bề ngoài tôi vẫn giả vờ như không chú ý gì đến chung quanh, chỉ có hai tai dỏng lên hệt tai mèo lúc đang rình chuột. Và tôi sướng mê tơi khi nghe cái âm thanh ngọt ngào quen thuộc vang lên: “Quang cho Hiền mượn coi đi!”. Chắc khi rao “Ai ăn chè không?”, giọng nó cũng ngọt lịm như vậy.
Trong số những học sinh bị kêu lên bảng đặt câu hôm đó, Quang là đứa duy nhất làm đúng hoàn toàn. Và lần đầu tiên kể từ khi cha sinh mẹ đẻ, nó đạt điểm mười môn ngữ pháp. Khi nghe thầy Dân hô điểm, nó cảm động đến rưng rưng nước mắt và bất giác nắm lấy tay tôi. Tôi là đứa ưa giỡn mà thấy vậy, cũng đâm ra ngùi ngùi.
Thầy Dân khen Quang không tiếc lời. Một học sinh từ kém vọt lên giỏi là một tấm gương đáng học tập. Rồi thầy khen cả nhóm tôi và khen tôi biết giúp đỡ bạn học tập.
Thấy thầy đang biểu dương tôi, Chí vọt miệng:
– Bạn Huy làm bài thơ về cụm chủ vị hay lắm đó thầy!
Thầy Dân ngạc nhiên:
– Em nói thơ gì?
– Thơ ngữ pháp đó thầy.
Nói xong, nó đưa cho thầy Dân coi bài thơ mà nó vừa chép lại của Bảy. Trước cặp mắt hồi hộp của tôi, thầy vừa đọc vừa gật gù nhận xét:
– Một sáng kiến hay!
*
* *
Cái “sáng kiến hay” đó ngay sáng hôm sau đã xuất hiện trên bản tin, ở chỗ mà Lửa Thần trước đây thèm nhỏ dãi cũng không được.
Bài thơ nhanh: Dng lan ra trong cả lớp, rồi truyền qua các lớp tám khác. Tiếp đó chương trình phát thanh Măng Non của liên đội phát đi bài “Một sáng kiến đáng biểu dương” nói về bài thơ của tôi. Chính “kẻ thù” của tôi, nhỏ Kim Liên, viết bài báo này.
Lần đầu tiên trong đời, tôi phát hiện ra không gì hạnh phúc cho bằng làm những việc đem lại lợi ích cho mọi người.
Sau sự kiện đáng nhớ đó, Đại nhìn tôi với cặp mắt khác. Nó trở nên thân mật và cởi mở với tôi hơn. Dường như nó tìm thấy ở tôi không phải chỉ có tính cứng đầu. Học ngữ pháp, có những chỗ nó giảng hoài mà nhỏ Hiền vẫn không chịu hiểu, nó thường nhờ tôi giảng giùm. Bao giờ cũng vậy, tôi nhận lời một cách hănh hái.
Nhỏ Hiền giống thằng Quang ở tính siêng năng, lại hơn Quang ở chỗ không nghĩ ngợi vẩn vơ, do đó được “ông thầy” có kinh nghiệm như tôi hướng dẫn, nó hiểu bài rất mau. Tất nhiên là học chung với nó, tôi không dám giở trò la hét ầm ĩ hay đập bàn đập ghế rầm rầm như khi học với tụi thằng Quang. Ngược lại, tôi cố gắng bắt cái giọng lỗ mãng của mình nói năng nhỏ nhẹ, ôn hòa hết cỡ, còn về tính kiên nhẫn thì không chê vô đâu được.
Chỉ tiếc là những dịp để tôi chứng tỏ sự dịu dàng như vậy không nhiều. Đại là một học sinh giỏi, lâu lâu nó mới “cầu cứu” tôi một lần. Tôi cứ thầm mong môn ngữ pháp có thật nhiều chỗ khó để cho Đại “kẹt” thật nhiều lần. Và tại sao tôi lại mong như vậy, tôi cũng không hiểu.
Chương 9:
Tôi thường mơ ước đến một ngày nào đó, tất cả mọi nhà trường trên trái đất sẽ chỉ dạy mỗi một môn văn. Nhưng trong khi chờ ước mơ đẹp đẽ đó thành sự thật thì tôi vẫn phải è cổ ra học các môn khác, nhất là môn toán mà tôi thường gọi chệch đi là môn “oán”. Tôi oán nó dễ sợ.
Chính vì nó mà trong nhóm “ba bạn cùng tiến” của chúng tôi chỉ có Bảy và Quang là tiên thực sự, còn tôi thì vẫn lẹt đẹt đằng sau, chẳng ra làm sao. Tôi làm “thầy” thiên hạ thì giỏi mà đến khi làm “học trò” thì lại không giống ai. Nhà sinh vật đã đạt được cái điểm mười: Dt vót của môn ngữ pháp rồi mà tôi thì vẫn quanh quẩn với mấy điểm ba, điểm bốn toán, không làm sao ngoi lên được điểm trung bình. Quang cũng kém toán như tôi nhưng được Bảy kèm một thời gian nó có khá lên được chút xíu, thỉnh thoảng còn được điểm sáu, chớ tôi thì tuyệt nhiên không. Dường như khoảng từ năm tới mười trong môn toán không phải là khu vực dành cho tôi. Tôi nghĩ vậy và biết thân biết phận không bén mảng tới đó.
Ngay sau buổi học nhóm đầu tiên ở nhà tôi, phấn khởi trước kết quả rực rỡ của bài giảng về văn nghị luận, tôi hào hứng sáng tác ngay một khẩu hiệu “dẹp điểm hai, bài điểm ba, xa điểm bốn, trốn điểm năm, căm điểm sáu, quý báu gì điểm bảy, quyết nhảy qua điểm tám, bám điểm chín, vịn điểm mười”. Đọc đi đọc lại, tôi phục tài tôi quá xá và tính đem lên lớp khoe với thằng Đại. Nhưng chợt nghĩ đến môn toán, tôi giật thót người và giấu biến ngay câu khẩu hiệu, không dám hó hé với ai, kể cả Bảy. Tụi nó mà biết được, bắt tôi thực hiện theo “sáng tác” của mình, chắc tôi chết. Điểm năm nó trốn tôi thì có chớ tôi sức mấy mà “trốn điểm năm”. Tìm mỏi con mắt không được chớ trốn tránh gì. Rồi tụi nó chơi cá bắt tôi “nhảy qua điểm tám”, chắc tôi té lọi cẳng.
Đại thường nói với tôi:
– Dạy văn với học toán, mày chỉ hoàn thành xuất sắc có một nhiệm vụ. Nhóm mày như vậy là chưa ngon!
Tôi cứng họng. Thằng quỷ, nó nói đâu có đó. Ở “đôi bạn” của nó, nhỏ Hiền tiến chậm nhưng chắc, đều các môn. Còn ở nhóm tôi thì sau khi giúp cho Bảy và Quang tiến, tôi ung dung “đứng lại” một mình.
Từ khi hết “bám đuôi” được Bảy, trong thâm tâm tôi cũng ao ước học giỏi môn toán như môn văn. Nhưng dự định là một chuyện còn thực hiện được dự định đó hay không lại là một chuyện hoàn toàn khác.
Ngay buổi học toán đầu tiên, tôi đã dội ngược.
Biết tôi mất căn bản, Bảy không giảng ngay vô chương trình lớp tám mà ôn lại chương trình lớp bảy.
Nó vẽ hai đường thẳng song song và một cát tuyến cắt ngang, rồi bắt đầu giảng về các cặp góc bằng nhau. Ôi, thôi thì đủ loại: nào là góc so le trong, góc so le ngoài, góc trong cùng phía, góc đồng vị… Tôi rối mù cả lên.
Năm ngoái tôi đã học bài này rồi. Nhưng lúc đó, góc nào muốn so le với góc nào thì mặc xác, trí óc tôi vẫn thảnh thơi như thường. Tôi chỉ việc ngồi nghĩ ngợi vẩn vơ và chờ “cóp-pi” thằng Bảy. Còn bây giờ, phải tự mình hiểu bài lấy đích thị là một cực hình.
Giảng xong, Bảy kiểm tra. Nó hỏi tôi:
– Hai góc này là hai góc gì?
– À… đó là hai góc so le…
– So le gì? Trong hay ngoài?
Tôi ngần ngừ:
– À… à… ngoài!
Bảy lắc đầu:
– Sai rồi! Đây là hai góc so le trong, còn khi chúng nằm ngoài hai đường thẳng song song thì chúng là so le ngoài.
Bảy quay sang Quang:
– Hai góc này là hai góc gì?
Quang nhanh nhẩu:
– So le ngoài.
– Đúng rồi! Còn hai góc này?
Quang hơi phân vân:
– Góc trong cùng phía hả mày?
Bảy gật gù, khen:
– Ừ, khá lắm!
Nhà sinh vật chưa chắc đã thông minh hơn tôi nhưng nhờ nãy giờ nó chăm chú nghe nên trả lời trúng phóc. Điều đó khiến tôi ganh tị. Tôi giục Bảy:
– Mày giảng lại một lần nữa đi! Lúc nãy tao không để ý!
Bảy nguýt tôi:
– Học mà không để ý!
Nói vậy nhưng nó vẫn kiên trì giảng lại. Tôi giỏng tai nhướng mắt một cách chăm chỉ. Và lần này thì Bảy hỏi đâu, tôi đáp đó ngon lành:
– Gì đây?
– So le trong.
– Gì đây?
– Góc ngoài cùng phía.
– Gì đây?
– Đồng vị.
Bảy tươi cười:
– Giỏi! Học vậy mới là học chớ!
Tôi còn tươi tỉnh hơn Bảy. Chà, té ra học toán cũng không đến nỗi khó lắm, miễn là phải tập trung chú ý một chút! Nghĩ vậy, tôi quyết chứng minh cho thằng Bảy biết là sở dĩ trước nay tôi dòm bài nó bởi vì tôi không thèm học toán chớ không phải tôi không học nổi môn này.
Nhưng khi Bảy đi vào chứng minh trường hợp các góc bằng nhau thì quyết tâm của tôi coi bộ muốn lung lay. Hai đường thẳng song song với một đường cát tuyến đã là nhiều rồi, vậy mà nó còn vẽ thêm một đường thẳng thứ tư nữa, khiến mọi sự rối rắm hẳn lên. Lại còn “giả sử” này “giả sử” kia nữa. Phức tạp! Tôi vốn sợ những bài toán phải vẽ thêm rồi “giả sử”. Vẽ đúng những điều đề toán đã cho tôi vẽ còn chưa ra nữa là thêm với thắt.
Nghe Bảy chứng minh một hồi, tôi chép miệng, nói:
– Hai góc đồng vị đương nhiên là bằng nhau rồi, cần gì phải chứng minh cho mệt! Dòm vô là thấy bằng nhau liền hà!
Bảy trợn mắt:
– Đâu có được! Tất cả mọi định lý đều cần phải chứng minh. Chỉ có các tiên đề Ơ-clit mới khỏi phải chứng minh.
Tôi ngạc nhiên một cách thành thật:
– Sao vậy mày?
– Bởi những tiên đề Ơ-clit đều dễ hiểu và hiển nhiên, được mọi người thừa nhận do đó không cần phải chứng minh. Ví dụ, qua một điểm ngoài một đường thẳng song song với đường thẳng đó mà thôi. Hoặc, qua hai điểm ta chỉ có thể vẽ được một đường thẳng. Những điều này đã học rồi mà mày quên.
Đúng là tôi đã quên phắt Ơ-clit. Nhưng Bảy thì không quên tôi. Nói xong, nó bắt tôi chứng minh lại sự bằng nhau của hai góc đồng vị.
Tôi cố nhớ lại phương pháp chứng minh Bảy đã giảng nhưng không tài nào nhớ được. Đúng là thoạt đầu nó có vẽ thêm một đường thẳng đi ngang qua giao điểm F, nhưng rồi sau đó thì sao?
Tôi loay hoay một hồi rồi buông viết, tặc lưỡi:
– Thôi, khỏi cần chứng minh nữa!
Bảy kinh ngạc:
– Sao kỳ vậy?
– Tao thừa nhận sự bằng nhau của hai góc đồng vị là hiển nhiên, không thể chối cãi.
Bảy nảy người trên ghế:
– Ý, trời ơi, đâu có được! Tất cả mọi người thừa nhận mới có giá trị chớ mình mày thừa nhận thì ăn thua gì!
Tôi khịt mũi:
– Không ăn thua gì, nhưng…
Bảy tròn mắt:
– Nhưng cái gì?
Tôi nhăn mặt:
– Tao đau bụng quá!
Bảy cười:
– Thôi đừng giả bộ! Mày tính trốn học phải không?
Tôi tiếp tục nhăn nhó:
– Tao đau thiệt mà! Hôm qua tao ăn gần nửa trái mít.
Quang xen vô:
– Nó nói xạo đó, Bảy ơi! Đừng tin nó!
Tôi liếc Quang, sừng sộ:
– Ai mượn mày xía vô? Học không lo học, cứ ưa thò mũi vô chuyện người khác!
Nói xong, tôi quay phắt người đi xuống nhà dưới, mặc cho hai đứa trố mắt ngó theo.
Tôi ngồi lâu thiệt lâu, hy vọng Bảy sẽ nản chí mà quay sang “chăm sóc” thằng Quang.
Y vậy, khi đi lên, tôi thấy Quang đang ngồi gãi đầu gãi cổ, mày mò chứng minh cái định lý mà tôi đã “thừa nhận”. Bảy đứng chồm người trên bàn quan sát, thỉnh thoảng lại kêu lên “trời ơi” khi Quang “trật đường ray”. Những lúc đó, mặt mày thằng Bảy nhăn nhó bắt tức cười.
Thừa lúc hai đứa chúi mũi vô bài toán, tôi lẳng lặng nhón gót đi ra cửa. Nhưng Bảy đã trông thấy, nó kêu giật giọng:
– Ê, Huy! Đi đâu đó?
– Tao chạy về nhà chút xíu.
– Đang học mà bỏ đi đâu! Quang làm xong rồi đây nè. Giờ tới lượt mày đó!
Tưởng sao, tới lượt mình thì mình càng phải đi! Tôi nói, chân bước qua ngạch cửa:
– Tao về dặn thằng Tin cái này một chút rồi trở qua liền.
Bảy còn nói vói theo câu gì đó nhưng tiếng xe cộ ầm ĩ ngoài đường át mất, tôi không nghe rõ.
Ra khỏi nhà nó như chim sổ lồng, tôi chạy một mạch về nhà, lòng nhẹ nhõm.
Tôi định tìm thằng Tin rủ nó đánh vài ván cờ chơi nhưng lại bắt gặp nó đang ngồi ôm tay nhăn nhó sau hè.
– Tay mày sao vậy?
– Em đóng đinh.
Bên cạnh nó, chiếc búa nằm lăn lóc với dúm đinh. Kế đó là chiếc ghế đẩu gãy một chân đứng chỏng chơ.
Tôi nhặt chiếc búa lên, hừ một tiếng:
– Đóng ba cây đinh mà cũng không biết cách! Ngó tao đây mà bắt chước!
Tôi ráp cái chân ghế vô và bắt đầu đóng. Tin lặng lẽ theo dõi. Thấy vậy, tôi càng ra bộ nhà nghề, tay nhắp nhắp chiếc búa. Nhưng tôi mới đóng được ba, bốn nhát, chiếc đinh đã cong queo. Thay cây đinh khác, cũng vậy.
– Đinh dỏm!
Tôi lầm bầm và cầm lên cây đinh mới. Lần này, hai ngón tay tôi kèm cây đinh thật chặt, tay kia giáng một nhát búa thiệt mạnh sau khi đã nhắp tới nhắp lui kỹ lưỡng. Bất thần, cây đinh trượt đi, và cục sắt phản chủ nện lên hai ngón tay tôi một cú như… búa bổ.
Tôi kêu “ối cha” và buông cây búa rớt xuống đất trong khi Tin khoái chí:
– Ha ha! Không biết ai bắt chước ai!
Tôi trừng mắt dòm nó và sau một hồi xuýt xoa, tôi lại cầm cây búa lên, kiên quyết đóng chiếc ghế cho bằng được trước sự ngạc nhiên của Tin. Nó xề lại gần tôi:
– Để em vịn cho anh đóng.
Tôi gặt phắt:
– Khỏi! Để mặc tao!
Tôi hì hà hì hục hơn một tiếng đồng hồ mới đóng xong chiếc ghế. Lúc này đã hơn bốn giờ chiều, có nghĩa là buổi học toán sắp kết thúc. Tôi an tâm phóng tới nhà Bảy.
Khi tôi bước vô, Quang đã xếp tập chuẩn bị ra về. Thấy tôi, Bảy trề môi:
– “Chút xíu” của mày là vậy đó hả?
Tôi cười giả lả:
– Tao kẹt chuyện nhà.
Bảy “hừ” giọng:
– Lần này là lần đầu mà cũng là lần: Dt tao để cho mày đi. Bữa sau thì đừng hòng.
*
* *
Nói sao làm vậy, trong buổi học toán tiếp theo, Bảy không cho tôi rời khỏi bàn nửa bước. Khi làm “thầy”, tôi oai bao nhiêu thì khi làm “thầy” Bảy cũng oai bấy nhiêu. Nó vốn là đứa dễ tính, hay nể chiều bạn bè, vậy mà khi kèm toán, nó trở nên cứng rắn không chịu được. Bảy không có thói hò hét, quát tháo như tôi, nhưng không vì vậy mà nó dễ dàng để tôi chuồn khỏi buổi học lần thứ hai. Tất cả mọi thứ bệnh hoạn mà loài người mắc phải từ khi có mặt trên trái đất, tôi đã đều đem ra “vận dụng” nhưng Bảy không xiêu lòng một mảy may. Nó nhếch mép:
– Mày chỉ có mỗi một bệnh là bệnh làm biếng thôi!
Ngay cả ngón đòn “ruột” của tôi cũng không đánh quỵ được Bảy. Mỗi khi nghe tôi gạ:
– Để tao chạy về nhà lấy cuốn truyện vụ án cho mày mượn.
Nếu như hồi trước, làm gì có cái chuyện “để mai” này. Hễ nghe tôi có cuốn truyện vụ án mới nào là Bảy nằng nạc đòi mượn ngay tức khắc, dù lúc đó đang ở đâu và làm gì. Nó làm như để lâu cuốn sách sẽ lên men và hết hay đi vậy. Nhưng gần đây, kể từ hồi học nhóm tới giờ, với sự kèm cặp và chế giễu của tôi, nó đã bớt mê loại chuyện ly kỳ, hồi hộp. Nó đã chịu đọc những quyển “Người mẹ cầm súng”, “Hòn Đất”, “Tắt đèn”, “Đất nước đứng lên” v.v… là những cuốn mà trước đây có cho kẹo nó cũng không rớ tới lấy một trang. Không những vậy, Bảy còn tự động trích văn vô sổ tay văn học chứ không thèm chép nguyên xi từ cuốn sổ của tôi như hồi mới đầu nữa.
Tôi hỏi nó:
– Cuốn “Người mẹ cầm súng” hay không mày?
– Hay chớ.
– Thiệt không?
– Thiệt! Năm ngoái học một đoạn, không thấy hay. Bây giờ, đọc nguyên cuốn mới thấy “đã”. Tao khoái mẹ con chị Út Tịch.
Tôi nheo mắt:
– Hay hơn cuốn “Vụ án lúc 0 giờ” không?
Nó ngần ngừ:
– À… mỗi cuốn hay mỗi kiểu.
Tôi không mong nó trả lời “Hay hơn”. Nó nhận xét như vậy cũng là tiến bộ lắm rồi. Nhưng chính sự tiến bộ đó hiện giờ làm tôi khổ. Nó nhất định không cho tôi chạy về nhà.
Tôi ngồi học cứ như chịu cực hình, thiệt chẳng bì với thằng Quang. Nhà Bảy mà tôi có cảm tưởng như nhà tù, thời gian dài dằng dặc. Chỉ thỉnh thoảng em nó khóc nhè, Bảy rời bàn học chạy lại dỗ dành, tôi mới thấy dễ thở đôi chút. Nhưng bực một cái là em nó ít khóc quá, thiệt bậy! Con nít phải khóc nhiều mới nở phổi! Tôi nhớ ai đó đã từng nói như vậy.
Bữa nay, Bảy giảng về hình tam giác. Tôi cứ lẫn lộn hoài trung tuyến với trung trực khiến Bảy nhăn nhó:
– Dễ ợt vậy mà quên hoài!
Bảy kêu dễ mà sao tôi chẳng thấy dễ chút nào. Nhưng cái đó chưa kinh. Khi học tới trường hợp hai tam giác bằng nhau, đầu óc tôi mới thật sự rối tung. Nó giảng đã đời rồi vẽ hai tam giác, cho góc này bằng góc kia, cạnh kia bằng cạnh nọ, xong hỏi tôi:
– Hai tam giác này bằng nhau không?
– Bằng nhau.
– Bằng đâu mà bằng! Có một góc với một cạnh bằng nhau thì hai tam giác không bằng nhau được.
Nó lại vẽ hai tam giác khác:
– Bây giờ hai tam giác này bằng nhau không?
Lần này tôi thấy có thêm một góc bằng nhau, liền hí hửng:
– Bằng chớ.
– Bằng là mày bằng đó! Ngồi không chịu nghe gì hết!
Tôi trố mắt:
– Sao lạ vậy? Bây giờ có tới hai góc và một cạnh bằng nhau kia mà?
Bảy lại nhăn mặt:
– Nhưng mà cạnh đó phải nằm giữa hai góc kia! Ở đây nó nằm lọt tuốt ra ngoài, đâu có bằng được!
Bảy giảng lại lần nữa. Tôi căng óc cố nhớ. Trường hợp thứ nhất, hai tam giác bằng nhau khi có một góc bằng nhau nằm giữa hai cạnh bằng nhau. Trường hợp thứ hai, một cạnh bằng nhau nằm giữa hai góc bằng nhau. Thứ ba, ba cạnh đều bằng nhau. Tôi nhẩm trong miệng một hồi, góc cạnh nằm lộn xộn hết ráo.
Nghe tôi đọc “hai góc cạnh nhau nằm giữa một cạnh bằng nhau”, Bảy đưa tay bịt hai lỗ tai:
– Thôi thôi, đừng đọc nữa! Mày đọc một hồi chắc tao phát điên mất!
Tôi thở dài:
– Nhưng mà tao phát điên trước mày! Toán với tiếc gì mà rối rắm!
Thấy tôi thê thảm quá, Bảy động viên:
– Thôi, ráng lên! Thằng Quang đã thuộc rồi đó!
Để giúp tôi, Bảy ghi tắt các công thức bằng ký hiệu. C.g.c tức là một góc bằng nhau nằm giữa hai cạnh bằng nhau. Tương tự như vậy, hai trường hợp kia là g.c.g và c.c.c.
Từ khi những câu nói rắc rối, khó nhớ kia được chuyển thành ký hiệu, tôi thấy dễ học hơn. Nhưng để cho nhớ dễ hơn nữa, tôi “chế biến” các ký hiệu cứng đơ thành một ngôn ngữ sống động, đầy hình ảnh. Tôi đọc c.g.c. thành con gà con, g.c.g. thành gà con gáy và c.c.c. là cúc cu cu. Tất nhiên là sau khi bầy gà xuất hiện, tôi thuộc nhão như cháo.
Thoạt đầu, nghe tôi trả lời, Bảy tặc lưỡi chán ngán:
– Học không lo, cứ lo giỡn!
Nhưng sau khi nghe tôi trình bày “phát minh”, Bảy phục sát đất, và đồng ý cho tôi đưa gà vô toán học. Thằng Quang đã học thuộc lòng trường hợp bằng nhau của các tam giác rồi, vậy mà nó cứ đòi học thêm “công thức gà” của tôi. Điều đó khiến tôi khoái chí vô cùng. Thằng Quang xin học thêm công thức của tôi thì Bảy sẵn lòng nhưng hễ nó mở miệng “Tụi mày có biết không, ở Nam Mỹ có một giống gà…” thì Bảy cắt cụp liền.
Thế là từ đó về sau, hễ thấy cái gì có thể “chế biến” ra “ngôn ngữ văn học” là tôi chế liền và do vậy tôi đỡ “oán” môn toán hơn.
Một bữa, Đại rủ nhỏ Hiền tới thăm nhóm tôi. Gọi là thăm chứ thiệt ra tôi biết “cậu ông trời” đi kiểm tra coi tôi học toán ra sao mà ở lớp cứ ì ạch như trâu kéo cày.
Cuộc đối đáp giữa Bảy và tôi khiến Đại và Hiền sửng sốt.
– Những trường hợp bằng nhau của hai tam giác? – Bảy hỏi.
– Con gà con và gà con gáy.
– Gì nữa?
– Cúc cu cu.
– Còn trường hợp tam giác đồng dạng?
– Gà gô gáy.
Gà gô gáy tức là có ba góc bằng nhau. Trường hợp tam giác đồng dạng là Bảy giảng thêm cho tôi với Quang khi tôi cứ khăng khăng cứ hễ hai tam giác có ba góc bằng nhau thì dứt khoát chúng phải bằng nhau.
Trong khi nhỏ Hiền che miệng cười khúc khích thì Đại nghiêm mặt, trách:
– Tụi mày học hành cà rỡn như vầy hèn gì thằng Huy cứ lẹt đẹt sau lưng thiên hạ hoài!
Tôi giả bộ im lặng, cố tình chọc cho “cậu ông trời” lên giọng góp ý, phê bình lâu lâu chút chơi nhưng Bảy không nhịn được cười trước bộ mặt thất vọng của Đại, nó cười phá lên và kể ra “công thức gà” của tôi.
Nghe xong, Đại phì cười. Còn nhỏ Hiền thì reo lên:
– Hay quá hén! Huy đọc lại một lần nữa cho Hiền nghe đi!
Hết “coi đi” tới “nghe đi”, cô bạn này làm tôi mát cả ruột gan.
Nhưng dù sao đi nữa, đối với tôi toán vẫn là một môn khó nuốt. Không phải định lý nào, công thức nào cũng có thể biến thành gà vịt được. Đó là chưa kể đến môn đại số quái quỷ, vốn không dành cho những người cẩu thả như tôi. Chính vì vậy, học gần hết học kỳ một mà trình độ toán của tôi chẳng tiến bộ được bao nhiêu, dù Bảy kèm rất tận tình.
Chương 10:
Mới đó đã gần bốn tháng. Vườn bạch đàn của chúng tôi bây giờ đã tươi tốt, xanh um, có cây cao tới hai mét. Các vườn cây láng giềng của các lớp tám, lớp chín khác cũng vậy. Mới ngày nào đây, khu vườn còn là một miếng đất hoang đầy cỏ rác vậy mà thoáng một cái, mặt đất đã phủ đầy màu xanh và bóng mát. Mỗi buổi sáng, ngồi trong lớp học nhìn ra những ngọn cây bạch đàn nhú bên ngoài cửa sổ, lòng chúng tôi thấy vui lạ lùng.
Trong giờ sinh hoạt lớp, sau khi thằng Hùng hớn hở báo về kết quả cây trồng, thầy Dân không tiếc lời khen gợi chúng tôi, đặc biệt là tổ năm, bởi vì hàng cây tổ năm lớn đều nhất và được rào chắn kỹ lưỡng nhất. Mấy đứa trong tổ tôi phấn khởi ra mặt, nhất là thằng Đại. Nó nhìn tụi tôi cười cười như để chia sẻ niềm vui trong lòng nó. Riêng tôi, tôi chỉ vui vừa phải bởi vì ngẫm nghĩ kỹ tôi thấy mình chẳng xuất sắc gì trong việc chăm sóc cây của tổ.
Lớp tôi có mười tổ. thằng Hùng phân công mỗi tổ phụ trách tưới cây mỗi ngày, đủ mười ngày thì giáp vòng trở lại. Kể từ ngày bị làm tự kiểm trước lớp về vụ tráo cây của thằng Tấn, bản thân tôi cũng có nhiều thay đổi. Chiều nào trực tưới cây tôi cũng vô trường, không “bận việc nhà” hay “bệnh hoạn” đột ngột như trước kia. Nhưng đó chỉ là sự tiến bộ so với chính tôi thôi chớ so với những đứa trong tổ thì chẳng ăn thua gì. Đại là tổ trưởng thì khỏi nói. Chỉ kể ba đứa còn lại thôi. Quang nhà xa hơn tôi. Bảy sức khỏe yếu hơn tôi. Hiền “bận việc nhà” chính đáng hơn tôi. Vậy mà không đứa nào nghỉ tưới cây lấy một bữa. Chiều nào trực vườn, nhỏ Hiền đổi ca với má nó. Má bán buổi chiều, con bán buổi tối.
Đó là chưa kể trong những buổi trực, Quang còn lên gặp dì Ba mượn cuốc về và mấy đứa xúm lại cuốc cuốc đào đào. Quang nói làm như vậy cho đất xốp, thoáng, cây mau lớn. Tôi thì chẳng khi nào rớ tới cây cuốc. Tưới nước xong, tôi coi như hoàn thành nhiệm vụ và tếch ra sân trước chơi đá cầu với tụi học sinh buổi chiều. Cái chính là do tôi lười nhưng một phần khác do Bảy cứ lải nhải bên tai tôi:
– Một tam giác có đường cao vừa là trung tuyến là tam giác gì?
– Muốn phân tích biểu thức khai triển của lập phương một nhị thức ta phải làm sao?
-…
Ngay trong khi học nhóm, ngồi vô bàn đàng hoàng, chưa chắc tôi đã nghĩ ra nữa là đang lúc tưới cây. Bảy hỏi câu nào tôi bí câu đó, lòng đã bực, lại thêm thằng Quang cứ ngứa mồm xía vô:
– Trời ơi, dễ ợt vậy mà không nhớ!
Khiến tôi nổi điên. Nhưng Quang thì không đáng kể. Ngán nhất là nhỏ Hiền. Nó vừa tưới cây vừa lắng nghe cuộc truy bài nhóm tôi. Thấy tôi ấp a ấp úng không trả lời được, chắc nó chê tôi ghê lắm. Nghĩ tới đó, tôi nóng ran mặt mày, gắt:
– Hỏi gì hỏi hoài! Đây là giờ lao động chớ đâu phải giờ học!
Bảy chưng hửng:
– Mày nói gì lạ vậy? Giờ nào ôn bài chẳng được! Tuần trước, chi đội phát động phong trào “Ôn bài mọi nơi, truy bài mọi lúc”, mày quên rồi sao?
– Vậy tới lượt tao hỏi mày nè! Trong câu “Anh bộ đội ấy vai đeo ba lô nặng trĩu”, vị ngữ là gì?
– Là cụm chủ-vị “vai đeo ba lô nặng trĩu” chớ gì!
Nó trả lời trúng phóc càng làm tôi điên tiết:
– Còn câu này “Thằng Bảy ngốc nghếch cứ hỏi luôn mồm”. Chủ ngữ là gì? Ai hỏi luôn mồm?
Bảy đỏ mặt:
– Dẹp mày đi! Tao không thèm trả lời.
Chỉ đợi có vậy, tôi tuyên bố:
– Mày không học nữa thì thôi nghen! Tao ra sân trước chơi đây.
Đại nãy giờ im lặng theo dõi cuộc “ôn lại cho nhớ” giữa hai đứa tôi, bỗng thấy tôi phá ngang và sắp sửa chuồn, nó kêu lên:
– Ơ… sao lại…
Nhưng mặc cho nó kêu, tôi chạy tuốt.
Chính vì những lẽ đó mà hôm nay được thầy Dân khen, tôi không cảm thấy vui lắm. Thậm chí tôi còn cảm thấy ngường ngượng với mấy đứa trong tổ.
Sau khi tổng kết các phong trào thi đua trong tuần, thầy Dân nói:
– Còn khoảng mười hôm nữa là đến ngày Kỷ niệm thành lập quân đội nhân dân. Đó là dịp để tất cả chúng ta, người lớn cũng như trẻ em, bày tỏ lòng biết ơn các anh chiến sĩ. Sỡ dĩ ngày hôm nay đất nước thanh bình, các em được bình yên học tập dưới mái trường chính là nhờ các anh chiến sĩ ngày đêm xông pha sương gió, chịu đựng bao nhiêu hy sinh gian khổ để giữ gìn biên cương Tổ Quốc.
Nói xong, thầy kêu chúng tôi mỗi đứa viết một lá thư và gởi một món quà cho các anh bộ đội. Khoảng ba, bốn ngày nữa, anh Quý, tổng phụ trách đội, sẽ cùng đi với các anh chị bên Quận đoàn ra thăm biên giới phía bắc, ảnh sẽ mang thư và quà đến tận tay các chiến sĩ.
Thằng Chí thắc mắc:
– Thưa thầy, chúng em phải gởi quà gì ạ?
– Quà gì thì tùy khả năng các em, không cần phải thứ đắt tiền. Các em có thể gởi những món quà vừa khả năng của mình đồng thời lại tiện dụng cho các anh bộ đội như khăn tay, xà phòng, bút chì, bàn chải đánh răng, bao thư v.v…
Nghe vậy thằng Quang vỗ vai tôi, khoe:
– Nhà tao có hai cục xà phòng mới tinh. Ba tao mới mua hàng tiêu chuẩn.
Tôi nhún vai:
– Tưởng gì! Xà phòng ở nhà tao thiếu gì!
Đúng lúc đó, nhỏ Hiền quay sang:
– Anh của bạn Đại là bộ đội đó nghen!
Tụi tôi tròn mắt:
– Thiệt không?
– Thiệt chớ! Hôm trước ảnh về phép, Hiền gặp đàng hoàng!
Bảy chớp mắt:
– Dám kỳ này anh nó nhận được quà của nó lắm à!
Nhỏ Hiền lúc lắc đầu:
– Không có đâu! Anh Quý mang quà ra phía bắc, còn anh của bạn Đại đóng ở phía tây nam, làm sao nhận được!
Bảy và Quang cứ xuýt xoa hoài về cái khoản “có anh đi bộ đội” của Đại khiến tôi phát ghen. Chà, kể ra có một ông anh bộ đội cũng oai thiệt! Nhưng không sao, tôi sẽ có cách “oai” của tôi.
Trưa đó, tôi hỏi ba tôi:
– Ba cho con xin một cục xà phòng nghen ba?
– Thì xà phòng trong nhà muốn xài thì lấy xài chớ hỏi gì?
Tôi ngập ngừng gạ tiếp:
– Ba… mua cho con bàn chải đánh răng nữa nghen?
Ba tôi đang bận đọc báo, ông gật gù dễ dãi:
– Ừ.
Thấy chiều hướng có vẻ thuận lợi, tôi lấn tới:
– Rồi ba cho con xin một xấp bao thư nữa hén?
Lần này thì ba tôi buông tờ báo xuống, quay nhìn tôi:
– Con làm gì mà xin đủ thứ vậy? Con viết thư cho ai mà xin bao thư?
Tôi ấp úng:
– Con… đâu có viết thư cho ai.
Ba tôi càng ngạc nhiên:
– Ủa, thằng này lạ! Vậy con lấy bao thư làm gì?
Tôi đành phải thú thật:
– Con làm quà cho các anh bộ đội.
Ba tôi đập bàn đánh rầm một cái khiến tôi giật mình nẩy người:
– Làm quà cho bộ đội thì nói ngay là làm quà cho bộ đội, có gì mà phải xin với xỏ!
Vậy là ba tôi đồng ý. Nhưng tôi chưa chịu thôi:
– Bút chì nữa nghen ba?
– Ừ, bút chì.
– Cả khăn tay nữa!
– Thì khăn tay!
Ba tôi gật đầu nốt. Trong khi tôi đang hùng hổ “tấn công” ba tôi thì thằng Tin ôm cặp chạy ào vô nhà, hét toáng:
– Ba ơi ba, ba cho con một cục xà phòng nghen ba? Con tặng các anh bộ đội!