<?php the_title(); ?>

Bàn Có 5 Chỗ Ngồi

09.07.2014
Admin

Truyện: Bàn Có 5 Chỗ Ngồi

Tác giả: Nguyễn Nhật Ánh.
Tình trạng: Hoàn thành.
Post bởi: HaySo1.Vn

********************

Chương 1:

Năm nay tôi lên lớp tám. Như vậy là tôi sắp sửa trở thành người lớn rồi. Oai thiệt là oai!
Tôi không nói dóc đâu. Chính thầy Dân, giáo viên chủ nhiệm của lớp tôi nói như thế.
Năm ngoái chúng tôi knông học thầy Dân. Các anh chị lớp trên người thì bảo thầy Dân khó, kẻ thì nói thầy Dân dễ, không biết đường nào mà tin. Nhưng hôm khai trường, ngay lần gặp đầu tiên, tôi thấy thầy không có vẻ gì là “hắc” cả. Thầy nói chuyện với lớp tôi bằng một giọng đầm ấm, thân mật:
– Như các em đã biết, năm nay thầy làm chủ nhiệm kiêm phụ trách chi đội lớp các em. Từ từ rồi thầy trò mình sẽ làm quen với nhau. Thầy tin rằng các em sẽ tự giác học tập tốt, trau giồi đạo đức, rèn luyện thân thể và chấp hành đúng nội quy của trường ta. Bởi vì năm nay các em không còn bé bỏng gì nữa, đã chuẩn bị trở thành người lớn rồi, toán các em sẽ làm quen với quỹ tích, văn các em sẽ bắt đầu học nghị luận. Những điều đó hoàn toàn khác xa với chương trình lớp bảy…
Thầy nói chưa hết mà cả lớp đã vỗ tay rần rần. Nghe nói mình sắp sữa trở thành người lớn, đứa nào cũng khoái. Tôi cũng vậy. Thầy còn nói nhiều nhưng tôi chẳng nhớ gì ngoài khoản “người lớn” đó.
Về nhà, tôi khoe ngay với thằng Tin, em tôi. Tôi vỗ vai nó, lên giọng:
– Tao năm nay là người lớn rồi đó nghe mày!
Thầy Dân nói là chúng tôi chuẩn bị làm người lớn thôi nhưng tôi cứ muốn làm người lớn ngay cho oai.
Thằng Tin là chúa hay cãi. Không bao giờ nói đồng ý với tôi một điều gì. Lần này cũng vậy, nó nheo mắt:
– Anh mà là người lớn?
– Chớ gì nữa!
– Người lớn sao không có râu?
– Tao cần quái gì râu!
Thằng Tin cười hì hì:
– Vậy thì anh cũng vẫn còn là trẻ con giống như em thôi.
Tôi “xì” một tiếng
:
– Mày làm sao giống tao được, đừng có dóc! Chính thầy Dân nói tụi tao là người lớn nè! Bởi vì chương trình lớp tám cái gì cũng khó hết, học hết cơm hết gạo chưa chắc đã hiểu.
Thằng Tin nhìn tôi với vẻ nghi ngờ:
– Khó dữ vậy hả?
Tôi nghiêm mặt:
– Bộ tao nói chơi với mày sao! Người ta soạn cho người lớn học mà lại.
Thằng Tin ngẫm nghĩ một hồi rồi nói:
– Như vậy, sang năm em cũng là ngươì lớn, em học lớp tám.
Tôi rụt vai:
– Mày không bao giờ trở thành người lớn được đâu. Người lớn không ai mang tên Tin cả, chỉ có trẻ con mới đặt tên Tin thôi.
Số là khi má tôi sinh thằng Tin, ba tôi đi công tác xa nên nhờ chú Thảo cạnh nhà làm khai sinh dùm. Giấy chứng sinh của bệnh viện ghi đúng là Phan Thanh Tân nhưng không hiểu sao giấy khai sinh của phòng hộ tịch do chú Thảo đem về lại biến thành Phan Thanh Tin. Từ đó, mọi người gọi em tôi là thằng cu Tin. Còn đám bạn cùng xóm thường bắt chước tiếng còi xe “tin, tin” để chọc nó. Thằng Tin ức cái tên mình lắm. Nghe tôi chê, nó phồng má:
– Lớn lên em sẽ đổi tên lại chớ lo gì.
– Thì khi nào mày đổi được tên rồi hẵn tính.
Nói xong, tôi quay đi. Còn thằng Tin thì hét tướng lên:
– Anh là người lớn thì nhớ đừng có giành ăn với em nữa nghe không?
Tôi không thèm trả lời nó, bỏ đi một mạch.

*
* *

Trở thành người lớn chưa hẳn là điều hay. Sáng nay, tôi bỗng nhận ra điều đó.
Thường theo thói quen, vào đầu năm học mới, chúng tôi ai nấy đều ngồi đúng vào vị trí của mình năm ngoái. Hôm khai trường, ngay sau khi bốn tiếng trống báo hiệu kết thúc buổi lễ ở sân cờ, chúng tôi ba chân bốn cẳng chạy uà về lớp, chen nhau vaò cửa, la hét chí: De. Những đứa chuyên nghịch phá như thằng Tú, thằng Thành thì nhảy phóc ngay qua cửa sổ, đi trên bàn rầm rầm chớ không thèm chen nhau như bọn tôi.
Cuối cùng rồi ai cũng về chổ nấy. Tôi ngồi ở bàn đầu ngay cạnh thằng Bảy, kế bên là nhỏ Phương, nhỏ Vân rồi thằng Minh, y như năm ngoái.
Sau khi ổn định chổ ngồi, tôi quay đầu hẳn ra sau, quan sát. Lớp tôi không đông đủ như năm ngoái. Một số đứa ở lại lớp Bảy. Một số đứa chuyển sang trường khác. Bù vào đó là những gương mặt mới. Có ít nhất là mười học sinh lớp tám năm ngoái lưu ban. Ngoài ra còn có các học sinh ở các lớp 7A1, 7A3 lên, không hiểu sao lại lọt vào lớp chúng tôi. Tuy nhiên hầu hết vẫn là học sinh lớp 7A2, tức là lớp chúng tôi cũ.
Không khí đầu năm học thật là vui nhộn. Tụi bạn thi nhau kể về những chuyến đi xa, những trò hấp dẫn trong ba tháng hè. Lớp học cứ huyên náo cả lên.
Tôi hỏi thằng Bảy:
– Hè vừa rồi mày có đi chơi đâu không?
Mặt nó buồn xo:
– Chân cẳng tao vầy mà đi đâu! Tao chỉ ở nhà trông em thôi.
Nghe nó nói vậy, tôi không hỏi nữa, sợ nó thêm rầu.
Số là chân phải của Bảy bị tật từ nhỏ, cái chân cong vòng ra đằng sau một cách bất thường. Khi đi lại, nó phải dùng hai cây gỗ làm gậy chống. Bảy tính hiền nhưng thỉnh thoảng cũng nổi cộc. Năm lớp sáu, thằng Thành chọc nó bị nó phang một gậy thiếu điều té ngửa.
Nhà Bảy ở gần nhà tôi. Nó có hai đứa em là thằng Hường và nhỏ Loan. Ba nó đạp xe ba gác còn má nó bán bánh kẹo ngay trước nhà. Một cái kệ gỗ nhỏ trên bày dăm ba lọ bánh kẹo xanh đỏ kèm với mớ đồ chơi bằng nhựa, đó là cả gian hàng của má nó. Bảy đi học buổi sáng, còn buổi chiều phải vừa ngồi bán kẹo vừa trông hai đứa em cho má nó nấu nướng, giặt giũ nên nó rất bận. Khi rảnh nó thường chạy qua nhà tôi mượn sách. Nó đọc toàn là sách tình báo với sách vụ án. Nó rất mê những câu chuyện ly kỳ, hấp dẫn, hồi hộp. Nhờ vậy mà nó nổi tiếng trong toàn trường. Số là năm ngoái, khi học loại văn tường thuật, cô Thanh ra đề “Em hãy tường thuật buổi lễ khai trường mà em đã tham dự”. Bài tập làm văn của Bảy nhập đề như sau: “Vào một buổi sáng tinh mơ, đường phố tĩnh mịch, không có một tiếng động. Bỗng từ góc phố thấp thoáng một bóng đen khả nghi. Bóng người đó im lặng rảo bước trên vỉa hè, tiến về phía cổng trường. Té ra đó là bác chủ tịch hội cha mẹ học sinh. Bác đến trường để dự lễ khai giảng năm học…”.
Khi cô Thanh đọc bài của nó lên, cả lớp ôm bụng cười bò. Qua hôm sau là cả trường đều biết. Từ đó tụi bạn thường gọi nó là Bảy-điệp-viên. Vậy mà Bảy vẫn chưa chừa hẳn cái tật đó. Bài văn nào của nó cũng “thình lình”, “đột ngột” hoặc “thoáng một cái”, “chớp một cái”, nghe bắt đứng tim. Văn nó buồn cười vậy mà toán thì hết sẩy. Không biết nó học hành cách sao mà bài tập toán của nó hết 9 lại đến 10, không bao giờ bị điểm 8. Tôi vốn dốt toán nhưng nhờ từ năm lớp sáu đến giờ luôn luôn ngồi cạnh Bảy nên cũng không bị xếp loại yếu. Ai chớ thằng Bảy thì nó cho tôi cóp-pi thả dàn.
Cũng vì vậy mà tôi không thèm học toán nên đã kém lại càng kém. Tôi cứ đinh ninh là tôi và thằng Bảy sẽ “ăn đời ở kiếp” với nhau, hai đưá sẽ ngồi cạnh nhau hết lớp này đến lớp khác, cho đến khi lên đại học và trở thành bác sĩ, kỹ sư mới thôi.
Ai dè sáng nay, thầy Dân kêu cả lớp sắp xếp lại chổ ngồi. Thầy bảo ngồi như hiện nay là lộn xộn, không hợp lý, em thấp ngồi sau, em cao ngồi trước, rồi có bàn toàn là con gái, không có một mống “nam nhi” nào.
Nghe nói đổi chỗ, cả lớp nhao nhao như một cái chợ. Thầy Dân phải gõ tay lên bảng mấy lần, chúng nó mới chịu im. Nhưng chỉ có đám con gái mới yên lặng thực sự, tụi nó mà đã chơi với nhau thì cứ dính như keo, chẳng đứa nào chịu rời đứa bên cạnh cả. Còn đám con trai bàn dưới thì rục rà rục rịch, cứ muốn đổi lên bàn trên. Trừ thằng Thành và thằng Tú là hai chúa nghịch ra, còn thì đứa nào cũng muốn ngồi gần cửa ra vào cho sáng, nhìn bảng cho rõ và nghe thầy cô giảng bài cho “thủng”.
Té ra lớp tôi hết phân nửa bị cận thị. Đứa nào cũng giơ tay:
– Thưa thầy, mắt em bị kém ạ. Em ngồi bàn dưới nhìn không rõ.
Lý do này có vẻ xác đáng. Nhưng thầy Dân không bị lừa. Thầy chỉ xếp những đứa nhỏ con lên bàn trên thôi. Còn những đứa khác, thầy bảo phải có giấy chứng nhận của bác sĩ. Thế là những tay cận thị giả vờ lập tức ỉu xìu.
Hễ có đứa dời lên bàn trên thì tất phải có đứa đổi xuống bàn dưới. Ác thay một trong những đứa được cả lớp nhất trí đề nghị “rời chổ” lại là tôi. Đứa to mồm nhất là thằng Chí ngồi ngay sau lưng tôi. Miệng nó ông ổng như thùng thiếc bể:
– Thưa thầy, cho trò Huy ra bàn sau ngồi đi ạ!
Tôi quay lại, trừng mắt:
– Có mày ra bàn sau thì có! Đồ con rệp!
Khi nổi khùng, tôi thường gọi thằng Chí là đồ con rận, con rệp. Bởi vì chí với rận, rệp thì cũng một loài như nhau cả thôi.
Nhưng thằng Chí không giận, nó nhe răng cười:
– Để coi đứa nào ra sau cho biết!
Thấy nó ăn nói có vẻ tự tin đồng thời thấy đám bạn ngồi phía dưới cứ nhao nhao phản đối tôi, tôi đâm chột dạ liền quay phắt lên trên, hai tay ôm cứng góc bàn, làm như đã ôm như vậy thì đừng hòng có ai gỡ tôi ra khỏi chỗ được.
Thầy Dân lại gần tôi:
– Các bạn đề nghị như vậy, em nghĩ sao?
Tim tôi tự dưng thót lại. Thầy hỏi tôi nghĩ sao, nhưng tôi biết đã đến nước này thì chẳng có nghĩ ngợi gì được. Số phận tôi coi như đã được định đoạt. Tuy nhiên tôi vẫn cố cứu vãn tình thế:
– Thưa thầy, em ngồi đây đâu có sao đâu ạ?
– Các bạn bảo là em ngồi che khuất bảng, các bạn không nhìn thấy.
– Các bạn ấy xạo đó ạ! Năm ngoái em cũng ngồi y chỗ này mà có bạn nào than phiền gì đâu!
Thằng Chí lại vọt miệng:
– Thưa thầy, năm ngoái bạn ấy còn nhỏ, năm nay bạn ấy lớn rồi ạ. Bạn ấy lớn nhất lớp mà ngồi bàn đầu, tụi em ở phiá sau không nhìn thấy gì hết.
Lại cái thằng con rệp! Sao mà nó nhiều chuyện y như bọn con gái vậy không biết! Tôi giận tím mặt nhưng có thầy đứng đó nên chẳng dám trả đũa. Thằng Lâm còn hùa theo:
– Thưa thầy, bạn Chí nói đúng đấy ạ.
Thằng Lâm này thật vô duyên. Ai mà chẳng biết Chí nói đúng. Ngay cả tôi còn ngạc nhiên về sự phát triển nhảy vọt của tôi nữa kia mà. Năm ngoái tôi chỉ đứng cao ngang vai của ba tôi, không hiểu sao trong ba tháng hè vừa qua tôi bỗng lớn vọt hẳn lên và bây giờ thì tôi đã cao ngang mét tai của ba tôi rồi. Má tôi nói là tôi “nhổ giò”. Còn bạn be của ba tôi, ai đến nhà chơi cũng trầm trồ:
– Chà, chú gà con bắt đầu trổ mã rồi!
Nghe mọi người khen tôi mau lớn, tôi khoái chí tử. Nhưng hôm nay cái khoảng “người lớn” đó đã làm hại tôi. Biết thân biết phận, tôi không dám cãi chầy cãi cối nữa mà lẳng lặng thu dọn tập vở, bước ra khỏi chổ ngồi.
Thầy Dân chỉ xuống bàn: Dt:
– Em ngồi kế chỗ em Quang kìa.
Quang là học sinh lớp 8A2 năm ngoái bị lưu ban. Nghe nói ngồi kế nó, tôi ngán ngẩm trong bụng.
Thầy Dân thấy bộ mặt rầu rĩ của tôi, phát tội nghiệp bèn động viên:
– Miễn là chú ý nghe giảng bài thì ngồi đâu cũng có thể học giỏi, có gì đâu mà em lo!
Thực ra ngồi bàn: Dt cũng có phần thuận lợi đối với những đứa hay nói chuyện riêng và ưa “quay” bài như tôi. Nhưng kẹt một nỗi là tôi phải chia tay với thằng Bảy. Tôi mà rời khỏi nó cũng như cá rời khỏi nước, biết sống làm sao với môn toán bây giờ. Tôi lo là lo như vậy.

*
* *

Tiếng trống tan học vừa vang lên, tôi đã vọt thẳng ra cửa đợi thằng Chí. Tôi định tâm sẽ nện cho nó một trận về cái tật bép xép. Năm ngoái đọ sức nhau, tôi với nó còn bất phân thắng bại chớ năm nay thì nó chết với tôi. Bây giờ tôi cao hơn nó gần một cái đầu.
Chí vừa lò dò ra khỏi cửa lớp, tôi đã chạy lại liền. Thoạt đầu nó cười với tôi nhưng rồi thấy bộ dạng hùng hổ của tôi, nó hiểu ra ngay ý định của đối phương liền co giò chạy. Tôi rượt theo. Hai đứa đuổi nhau quanh mấy gốc phượng và bã đậu trong sân, xô cả vào học sinh các lớp khác. Tôi giẫm phải chân một đứa con gái bên lớp 8A1 khiến nó la oai oái. Đến khi rượt bén gót Chí, sắp nắm được vạt áo nó thì nó không chạy quanh mấy gốc cây nữa mà vù thẳng ra cổng. Tôi bặm môi tính đuổi theo thì thằng Cang, lớp trưởng lớp tôi, kêu om sòm:
– Huy ơi, Chí ơi! Lại đây xếp hàng chớ chạy đi đâu đó! Bạn nào ra về không xếp hàng ngày mai tôi báo với thầy Dân cho coi!
Nghe vậy, tôi liền đứng lại, không đuổi theo đối thủ nữa. Còn thằng Chí thì phớt lờ, dông luôn. Nó ớn tôi.
Nhỏ Kim Hà, lớp phó trật tự, đứng trong hàng, liếc tôi:
– Bạn Huy đánh lộn trong sân trường nghen! Tôi trừ điểm thi đua à!
Tôi cãi:
– Tôi rượt chơi chớ đánh lộn hồi nào?
– Nến rượt kịp thì bạn đã đánh nhau rồi.
Tôi trề môi:
– Khi nào đánh nhau hẵng hay. Hừ, nói vậy mà cũng nói!
Con gái gì mà y như bà chằn, cái mặt nghinh nghinh ngó dễ ghét! Không hiểu sao hôm trước tôi lại bầu nó làm lớp phó trật tự! Tôi vừa bước vô hàng vừa rủa thầm trong bụng.
Tôi không đứng theo tổ 5 của tôi mà lại đứng vaò tổ 1, ngay sau lưng thằng Bảy. Tôi khều nó:
– Nè, lát về tao nói mày nghe cái này hay lắm!
– Lại kể chuyện ba tháng hè ở chơi nhà ông chú trên Đà Lạt nữa chớ gì?
Tôi khịt mũi:
– Mày đóan trật lất. Chuyện này khác.
Trên đường về, khi những đứa bạn đã rẽ sang đường khác, chỉ còn mình Bảy với tôi, tôi liền bảo nó:
– Mày xuống bàn dưới ngồi chung với tao đi.
– Chi vậy?
Thằng Bảy hỏi cù lần thiệt! Nhưng tôi không dám nói thiệt lý do với nó. Tôi chép miệng:
– Thì ngồi chung cho có bạn chớ chi! Tao ngồi gần mày quen rồi, nay ngồi với mấy đứa lạ tao thấy nó sao sao ấy!
Bảy đắn đo:
– Nhưng ngồi bàn: Dt mỗi lần thầy kêu lên bảng, tao đi lại khó khăn lắm!
– Thì tao nhường mày ngồi đầu bàn, tao ngồi trong! Dễ ợt!
Thấy vẻ mặt nó hơi ngần ngừ, tôi bồi luôn đòn quyết định:
– Mày xuống ngồi với tao, tao cho mày mượn mấy cuốn sách hay lắm! Anh tao mơi mua.
Mắt Bảy sáng trưng như đen` pha:
– Sách hả? Sách gì vậy mày?
Tôi rao hàng:
– Toàn sách tình báo. “Hột xoàn trong mả” nè, “Vòi bạch tuột và những đồng tiền vàng” nè, “Phát súng trong đêm” nè, còn mấy cuốn nữa mà tao không nhớ tên.
“Phát súng trong đêm” đã bắn gục Bảy, nó quỵ liền:
– Được rồi, tao sẽ xuống bàn mày. Nhưng rủi thầy Dân không chịu thì sao?
Tôi nhúng vai:
– Xin lên bàn trên mới khó chớ xin xuống thì dễ ợt. Thiếu gì cách nói. Mày bảo là tao với mày về nhà thường học chung nên ở lớp ngồi gần cho tiện.
Bảy phân vân:
– Như vậy là nói dối.
Tôi tặc lưỡi:
– Thì mình chỉ nói dối lần này thôi. Với lại có phải mình nói dối để làm hại ai đâu! À, cuốn “Hột xoàn trong mả” hay lắm nghen mày! Tao mới đọc hồi hôm. Trong đó có nhiều “bóng đen khả nghi” lắm!
Thấy tôi nhắc chuyện cũ chọc nó, thằng Bảy giơ gậy lên nhưng tôi đã kịp chạy xuống lòng đường, cười hích hích.
Trước khi về nhà, tôi còn nhắc nó lần nữa:
– Nhớ nghen mày! Ngày mai đổi xuống đi!

Chương 2:

Thế là thằng Bảy xuống ngồi chung với tôi. Còn thằng Sơn ở bàn tôi thì lên chổ Bảy. Sơn là một trong những đứa giả vờ khai cận thị nhưng thầy Dân không bị mắc mưu, thầy chỉ ưu tiên xếp cho nó ngồi đầu bàn phía lối đi vì nó nhỏ con nhất trong tổ. Hôm nay tự dưng được mời lên bàn đầu, nó mừng như bắt được vàng, vội vàng thu dọn đồ đạc đi ngay sợ Bảy đổi ý.
Thầy Dân thoạt đầu không đồng ý nhưng đến khi nghe hai đứa tôi trình bày “vì lý do học tập”, thầy chịu liền. Thầy còn khen:
– Các em biết tự giác học chung với nhau như vậy rất tốt. Lớp ta tới đây sẽ xây dựng các đôi bạn cùng tiến để giúp đỡ nhau tiến bộ. Huy và Bảy đã có nề nếp sẵn như vậy thì rất thuận lợi.
Nghe thầy khen trước lớp, tôi khoái lắm. Tôi quay sang Bảy để chia sẻ niềm vui nhưng thấy nó ngồi im re. Tôi thúc vô hông nó:
– Thầy khen, khoái không mày?
Nó cằn nhằn:
– Mắc cỡ thấy mồ chứ khoái gì? Mình có học chung với nhau thiệt đâu mà khoái!
Nghe nó nói, tôi cũng đâm ngượng. Ừ, nói dối thầy có gì mà vui! Tôi ngẫm nghĩ một hồi rồi nói nhỏ:
– Năm nay mình học chung đi!
Bảy liếc tôi, nghi ngờ:
– Mày mà chịu học chung! Mày làm biếng thấy mồ!
– Tao mà làm biếng!
Tuy ngoài miệng nói vậy nhưng trong bụng tôi không tin mình lắm. Thằng Bảy nhận xét vậy là đúng. Ở nhà, tôi nổi tiếng là chúa lười. Chẳng bao giờ tôi mó tay vào việc gì. Ngay cả những việc nhỏ nhặt như rửa chén, quét nhà tôi cũng đùn cho thằng Tin làm. Mẹ tôi thường phàn nàn:
– Không biết lớn lên mày làm nên cái trò trống gì! Làm biếng như mày chắc chết đói!
Tôi cười tỉnh khô:
– Chết sao được mà chết! Lúc còn nhỏ thì mẹ nuôi, lớn lên vợ nuôi, về già con nuôi. Con đã tính trước hết rồi.
Mẹ tôi “hừ” một tiếng:
– Sống như mày thì vợ nó lấy chổi nó quét ra đường chứ ở đó mà nuôi.
Tôi không biết sau này vợ tôi có quét tôi ra đường không chớ bây giờ tôi cũng chẳng siêng lên được tý nào. Cứ mỗi lần phải làm một việc gì, tay chân tôi nó uể oải làm sao ấy, làm như nó muốn phản đối thì phải. Ngay cả việc học tập cũng vậy, ngoài môn văn là tôi rất khá (năm ngoái lớp giao tôi phụ trách bản tin của lớp) còn thì tôi “chạy mặt” tất. Cái môn toán rối rắm thì không nói làm gì, nhưng ngay cả các môn dễ như sinh vật, lịch sử tôi cũng chào thua. Phải ngồi học bài, phải dán mình vào một chỗ tụng niệm ê a đối với tôi là một cực hình. Tôi chỉ khoái chạy nhảy. Phải chi nhà trường thay môn sinh vật bằng môn bóng đá thì tôi học đâu đến nổi tồi. Sao người ta lại không nghĩ ra điều đó cà? Thật bực mình!
Ngồi bên trái tôi là thằng Quang, học sinh lớp 8A2 cũ. Thằng này đầu tóc rễ tre, mặt chữ điền, da ngăm ngăm, cặp mắt lúc nào cũng mơ mơ màng màng như một nhà thơ chính cống.
Từ hồi nhập học đến giờ, tôi mới nói chuyện với nó hai lần. Lần nào nó cũng làm tôi ngạc nhiên đến sửng sốt.
Lần đầu, đang xếp hàng bị kiến cắn, tôi la bài hãi.
Nó đứng sau lưng, hỏi:
– Gì vậy mày?
Tôi chỉ ổ kiến lửa dưới chân. Nó cười ngất, nói:
– Kiến này cắn nhằm nhò gì mà la! Ở rừng Ma-lai-xi-a, có loại kiến Ốc-cô-phi-la độc lắm, nó cắn một phát thì lủng thịt, nọc nó đốt buốt ghê lắm, công nhân đồn điền cà phê rất ngán. Đặt biệt, loại kiến này có thể lấy lá cà phê, lá cam sắp úp lại với nhau, cắn thủng mép lá rồi lấy ấu trùng có tơ kén làm con thoi sống để khâu lỗ. Hết sẩy chưa! Đó là chưa kể loại kiến Đô-ri-lin sống ở Châu Phi và Châu Mỹ, mỗi lần đi săn mồi chúng di chuyển hàng tỷ con, tấn công các làng mạc. Mỗi lần tụi nó tràn qua thì tất cả mọi động vật trên đường chỉ còn bộ xương. Voi, cọp, sư tử, gấu, beo gặp tụi kiến này đều vắt giò lên cổ chạy trối chết…
Thằng Quang nói say sưa. Nó thao thao bất tuyệt như ra-đi-ô được bắt trúng sóng. Nó kể đủ thứ chuyện trên trời dưới đất có liên quan đến kiến cho đến khi thằng Cang ra hiệu cho tổ 5 vào lớp, nó mới chịu thôi một cách tiếc rẻ. Trong khi đó những vết kiến cắn dưới chân tôi phát ngứa râm rang rất khó chịu, nhưng dù vậy tôi cũng rất ngạc nhiên về kiến thức của Quang. Không biết chuyện kiến ở đâu mà nó lôi ra lắm thế.
Lần khác, trong giờ ra chơi tôi đang đứng dựa cột coi tụi lớp 6 chơi đá dế thì Quang lò dò lại. Nó đứng dòm một hồi rồi tự nhiên hỏi tôi:
– Đố mày, dế gáy bằng cái gì?
Tôi nhìn nó lạ lùng:
– Sao mày hỏi ngốc vậy? Không gáy bằng miệng thì bằng gì?
Nó cười:
– Nó gáy bằng cánh mày ạ.
Tôi nhăn mặt:
– Đừng có xạo!
Nó vẫn bình tĩnh:
– Thiệt đó! Ven bìa đầu: Dt của cặp cánh trước của dế đực có những đường gân đậm, phía dưới có những răng cưa nhỏ hình ba góc. Còn phía trên mặt nhám. Khi cánh cọ vào nhau thì răng cưa cà qua mặt cánh nhám y như nhạc sĩ kéo đàn vậy. Chuyển động đó liên tục làm cho cánh rung đến năm ngàn lần trong một giây và phát ra âm thanh mà mình gọi là tiếng gáy. Có loại dế phát ra âm thanh vang xa đến một cây số rưỡi lận nghen mày!
Tôi đang bàng hoàng trước chuyện dế gáy bằng cánh thì Quang đã bắt đầu kể ra hàng lô hàng lốc những loại dế như dế lửa, dế than, dế: D dế cơm, dế cúc, dế ốc tiêu, dế hộp quẹt, dế trọc đầu v.v… rồi họ hàng nhà dế như cắn tóc, bọ ngựa, châu chấu, bù cào, gián, vạt sành. Tôi nghe muốn: Dng cả mặt. Té ra thằng Quang biết rất nhiều chuyện. Tôi có cảm giác như đang tiếp xúc với một pho tự điển sống. Phát hiện này làm tôi thắc mắc:
– Mày giỏi vậy mà sao bị lưu ban?
Quang rờ gáy:
– Giỏi gì mà giỏi! Tao chỉ mê mỗi môn sinh vật thôi. Nhà tao có cả lô sách báo nói về đời sống động vật, đọc khoái lắm! Tao còn nuôi cả một cặp thỏ để nghiên cứu nữa nha mày. Khi nào mày đến chơi tao cho mày coi. Lớn lên tao định sẽ trở thành nhà sinh vật học, tao cóc khoái các nghề khác!
Tôi “vặn sườn” nó:
– Mày cứ lưu ban hoài biết chừng nào mới trở thành nhà sinh vật học nổi!
Quang thở dài, chép miệng:
– Biết làm sao bây giờ! Sinh vật thì tao rất khá, toàn điểm chín, điểm mười. Còn các môn kia thì… Nhất là toán với ngữ pháp, tao cứ hết điểm 3 lại tới điểm 2. Chẳng hiểu sao càng học tao lại càng dốt thêm. Hình như cái đầu tao nó sao sao ấy.
Tôi liếc thử đầu nó, thấy vẫn đủ tóc tai như mọi người, có sao sao ấy gì đâu. Tôi nhủ bụng: Hay là nó cũng làm biếng như mình?
Đó là những điều tôi biết về Quang. Ngồi kế Quang là nhỏ Hiền. Nhỏ Hiền cũng là học sinh lưu ban. Nó lớn hơn tôi hai tuổi, vóc người đầy đặn ra dáng một thiếu nữ. So với đám con gái trong lớp, nhỏ Hiền có vẻ chững chạc, trầm tĩnh hơn. Giờ ra chơi, Hiền không chơi nhảy dây, rượt bắt hoặc mút kem như những đứa khác mà ngồi lại trong lớp cùng với nhỏ Hoa, nhỏ Liên đem kim chỉ ra thêu. Tôi chưa trò chuyện với nhỏ Hiền lần nào, một là nó vốn chẳng phải con trai, hai là vì có thằng Quang ngồi chen giữa tôi với nó.
Ngồi ở rìa bàn, trong góc lớp là thằng Đại. Ngồi kế nhỏ Hiền, thường bị tụi bạn “cặp đôi”, Đại ức lắm nhưng không nói. Tính nó vốn lầm lì xưa nay. Điều đó cả lớp 8A3 đều biết. Năm ngoái nó học 7A3, đáng lẽ năm nay lên thẳng 8A3 như những đứa khác nhưng không hiểu sao nó lại lọt vào lớp tôi.
Thường thì tính lầm lì đi đôi với chậm chạp. Thằng Đại cũng vậy. Hôm khai trường, mặc cho chúng tôi chen nhau vào lớp và giành chổ đến đỏ mặt tía tai, có đứa đứt cả nút áo, nó cứ đủng đa đủng đỉnh đi đằng sau. Khi nó vaò tới nơi thì các dãy bàn đã kín người, chỉ còn mỗi chổ trống ở bàn: Dt, trong góc lớp, không đứa nào thèm giành. Đại thản nhiên ôm cặp đi tới chổ trống, ngồi xuống, không cằn nhằn một tiếng.
Hôm xếp laị chổ ngồi cũng vậy. Mặc cho tụi bạn nhao nhao yêu cầu, khiếu nại, nó cứ lặng lẽ như không, hệt như không có chổ ngồi nào tốt hơn chổ đó.
Cái thằng tính tình đến lạ! Lúc bầu tổ trưởng học tập, thằng Bảy và thằng Quang đề nghị bầu tôi, tôi giẫy đành đạch:
– Trời ơi, không được đâu! Tao mà làm tổ trưởng có nước tổ mình cầm đèn lái sớm!
Điều này tôi nói thật. Tôi vừa kém toán vừa có tật làm biếng, học một mình còn chưa xong làm sao “quản lý” cả tổ được. Tôi liền đề cử thằng Bảy. Bảy lắc đầu:
– Chân cẳng tao vầy!
Thằng Bảy có cái chân “lợi hại” thiệt! Mỗi lần muốn từ chối điều gì, nó đưa cái chân ra là không ai dám ép.
Quang với Hiền, hai đứa lưu ban thì tất nhiên không thể làm tổ trưởng được rồi. Cuối cùng tụi tôi đùn cho thằng Đại.
Đại nãy giờ ngồi im, không có ý kiến gì về chuyện bầu bán của tụi tôi, nay thấy tụi tôi không ai nhận chức tổ trưởng, hết người bầu rồi nên bầu cho nó, nó nhoẻn miệng cười.
Tôi cứ tưởng nó sẽ từ chối vì tự ái hoặc ít ra cũng làm bộ làm tịch, ai dè nó gật đầu cái rụp:
– Các bạn bầu tôi thì tôi sẽ cố gắng làm tròn nhiệm vụ của mình. Nhưng các bạn cũng phải cố gắng học tập, thực hiện tốt nội quy kỷ luật thì tổ mình mới tiến bộ được. Bạn nào mà lơ mơ, tôi trừ điểm thi đua ráng chịu à nghen!
Hôm qua nhỏ Kim Hà hăm, hôm nay tới phiên thằng Đại dọa. Đúng là cóc mở miệng. Con cóc quanh năm nằm yên không hó hé nửa tiếng, nhưng hể mở miệng là trời gầm. Thằng Đại này cũng vậy, lúc nào thì cũng im ỉm mà hễ mở miệng thì cứ y thầy hiệu trưởng nói trước sân cờ. “Lơ mơ thì tôi trừ điểm thi đua”, nghe dễ ghét. Nếu biết nó ăn nói như vậy thì khi nãy tôi nhận chức tổ trưởng quách cho rồi.
Tôi ngồi yên coi có đứa nào lên tiếng phản đối thằng Đại không nhưng tụi nó tỉnh bơ, thậm chí thằng Bảy còn gật gù:
– Tất nhiên là tụi mình sẽ cố gắng rồi.
Tôi nổi sùng thúc vô hông Bảy một cái khiến nó kêu oai oái. May mà thầy không nghe thấy.
Năm ngoái cô Dung chia cả lớp ra thành năm tổ. Hai bàn một tổ. Đó là cách chia xưa nay. Năm nay, thầy Dân lại chia mỗi bàn một tổ. Như vậy là lớp tôi có tới mười tổ lận. Thầy nói chia như vậy để sinh hoạt cho chặt chẽ. Tôi tặc lưỡi tiếc rẻ: Nếu chia như cô Dung thì tôi cóc bầu thằng Đại mà bầu thằng Tuấn ngồi bàn trên làm tổ trưởng rồi. Tuấn vừa học giỏi lại vừa hiền lành, không hề lên giọng với bạn bè bao giờ.
Tôi càng tức thằng Đại hơn nữa khi ngay ngày hôm sau, vừa ra chơi vô, nó đã kêu tôi:
– Bạn Huy bỏ aó vô quần đi chớ!
Thật ra thì ở hai tiết đầu, tôi có bỏ aó vô quần đàng hoàng. Nhưng lúc ra chơi, tôi rượt nhau vơi thằng Chí nên aó tuột ra ngoài lúc nào không hay, bây giờ nghe Đại nhắc tôi mới để ý. Nếu tự tôi phát hiện ra thì tôi đã nhét aó vô rồi nhưng đằng này là do thằng Đại nhắc. Nhắc thì cũng như ra lệnh. Nghe theo thì nhục quá, tôi đâm bướng:
– Tao cứ bỏ ra ngoài cho mát!
– Mát kiểu gì kỳ vậy? Nội quy cấm học sinh bỏ aó ngoài quần mà!
Cái thằng ăn nói thật cù lần! Tôi nghinh mặt:
– Mày làm như có mình mày biết nội quy vậy!
Đại nhướng mắt:
– Bạn biết sao bạn còn vi phạm?
Tôi nhếch môi:
– Tao nói rồi! Cho mát!
Đại giở sổ ra:
– Tao trừ điểm tác phong mày à nghen!
Nó nổi sùng không thèm kêu tôi là “bạn” nữa. Tôi cũng nổi điên:
– Cho mày trừ. Tao cóc cần!
Vậy là mất đứt hai điểm thi đua, tôi nhủ thầm và chán nản ngồi phịch xuống ghế. Nhưng Đại chưa chịu thôi:
– Bây giờ mà mày không bỏ aó vô quần tao méc cô à!
Lúc này, lớp đang học tiết sử của cô Thu Ba. Cô Thu Ba lúc nào cũng hiền lành, nhỏ nhẹ, tôi không ngán. Nhưng tôi sợ cô báo lại với thầy Dân thì kẹt. Thầy Dân đã từng dặn chúng tôi bao nhiêu lần về cái khoản bỏ aó vô quần này rồi.
Tôi đang ngần ngừ, tiến thoái lưỡng nan thì thằng Bảy thấy tình hình găng quá liền xen vô:
– Thôi, bỏ aó vô quần cho rồi mày ơi! Nãy giờ đủ mát rồi!
Tôi liền chộp ngay câu nói của thằng Bảy như người sắp chết đuối gặp được cái phao:
– Bỏ thì bỏ! Tại đủ mát rồi nên tao bỏ vô chớ không phải tao ngán thằng Đại đâu! Đừng có ham!
Tôi vừa nói vừa cố ý nhét vạt aó vô quần một cách cẩu thả, ra cái điều không quan trọng lắm. Còn thằng Đại cũng thôi quấy rầy tôi. Nó ngồi im, chăm chú nhình lên bảng y như không có chuyện gì xảy ra. Nó làm bộ vậy chứ tôi đoán là nó căm tôi lắm.
Lần khác, nó lại chỉnh tôi chuyện bảng tên:
– Bảng tên mày đâu sao không đeo?
Tôi liền thò tay vô túi quần móc ra tấm bảng tên bằng vải nhàu nát rồi lấy kim băng cài lên ngực aó. Xong, tôi liếc nó:
– Còn thắc mắc gì nữa không?
Nó lắc đầu: – Ai lại đeo bảng tên luộm thuộm như mày. Hai bên mép rũ xuống che lấp cả mặt trước, có đọc ra chữ gì đâu! Phải may dính vô aó hoặc it’ ra cũng phải ép ni-lông như thằng Bảy chớ!
Tấm bảng tên của Bảy ép ni-lông phẳng phiu, phía trên còn đính thêm một miếng rẻo hình tam giác, lại có cả nút cài nữa mới ngon lành chớ. Hôm trước, nó rủ tôi đi ép ni-lông nhưng tôi lười nên đến nay mấy tấm bảng tên của tôi vẫn còn nằm nhăn nheo trong các túi quần, túi aó. Khi nào có ai kiểm tra, tôi lại lôi ra và lấy kim băng cài lên áo.
Tôi làm vậy trước giờ có ai nói gì đâu, vậy mà thằng “cậu ông trời” này (con cóc là cậu ông trời mà!) cứ khó dễ tôi đến cùng. Nhưng lần này ỷ mình có đeo bảng tên trên ngực như ai, tôi cóc ngán nó. Tôi quay lưng bỏ đi sau khi buông thỏng một câu:
– Nhà tao nghèo không có tiền đi ép ni-lông như thiên hạ đâu!
Tôi nói là nói lẫy với Đại cho bỏ ghét. Hổng dè nhỏ Hiền nghe thấy. Đến giờ về, nó đến gần tôi, nhỏ nhẹ:
– Huy không có tiền đi ép ni-lông thì hôm nào đến nhà tui chơi, tui may bảng tên vô áo dùm cho.
Tôi ngớ người ra, chưa biết trả lời sao thì nó bỏ chạy mất. Đến khi tôi “tỉnh” lại thì nó đã trà trộn vào giữa đám con gái mất rồi.
Nó tên Hiền hèn gì nó hiền thiệt! Chắc nó tưởng nhà tôi nghèo rớt mồng tơi!

Chương 3:

Chiều nay tôi đến nhà nhỏ Hiền. Nhà nó nằm ở cuối chợ Cầu Ván, kế bên rãnh thoát nước đen ngòm. Đó là một căn nhà lụp xụp, tồi tàn, mái bằng tôn, cửa cũng bằng tôn, những tấm tôn cũ kỹ, gỉ và thủng lỗ chỗ.
Từ hôm nó đề nghị may bản tên cho tôi đến nay, hai đứa đều tránh nói chuyện với nhau. Tôi chẳng phải là đứa hiền lành gì nhưng chẳng hiểu sao mỗi khi gặp nó tôi đều đâm ra lúng túng. Còn Hiền thì thấy tôi không nói gì về vụ đó, tấm bản tên nhàu nát vẫn lủng lẳng bướng bỉnh trên ngực áo, lại càng né mặt tôi. Có lẽ Hiền nghĩ là tôi tự ái.
Đang làm mặt lạ với nhau, đùng một cái tôi lò mò đến nhà Hiền, thiệt kẹt! Hơn nữa, con trai bọn tôi có “truyền thống” không chơi thân với đám con gái. Mặc dù trong lớp ngồi chung bàn nhưng khi ra chơi thì nam đi đường nam nữ đi đường nữ, rạch ròi. Tụi nó mà biết chiều nay tôi “đơn phương độc mã” tới “thăm” Hiền thì tụi nó chọc quê đến nước tôi phải độn thổ chứ không phải chơi. Thiệt khổ! Trăm sự cũng tại cái môn địa quái quỷ. Học mấy tuần rồi mà tôi cũng chưa vẽ nổi cái bản đồ Châu Âu. Thậm chí tôi còn không hình dung nổi nó hình vuông hay hình tam giác nữa là. Hổm rày ngồi trong lớp tôi cứ lo cãi nhau với thằng Đại riết, hết áo tới quần, hết tai tới tóc, có để tâm nghe giảng gì đâu.
Hồi trưa, lật thời khóa biểu coi tôi mới nhớ ngày mai có tiết vẽ bản đồ, vẽ xong còn phải ghi ký hiệu vùng nào có than, vùng nào dầu lửa, ôi thôi đủ thứ rắc rối trên đời! Tôi vội vàng phóc ngay qua nhà thằng Bảy nhưng nó đi thăm bà cô tít trên Nhà Bè tối mới về. Như vậy thì hỏng bét, không thể đợi nó được! Tôi nghĩ tới nghĩ lui một hồi và quyết định tới nhà Hiền. Hiền giữ cuốn sách địa lý duy nhất của tổ tôi. Hôm phát sách giáo khoa, không đứa nào thèm lấy cuốn địa. Đứa nào cũng thi nhau giành giật sách ngữ pháp, vật lý, hóa học và các cuốn bài tập toán.
Bảy đưa cuốn địa cho tôi, tôi gạt phắt:
– Tao lấy cuốn này làm gì! Đổi cho tao cuốn vật lý đi!
Cuối cùng nhỏ Hiền lãnh cuốn địa.
Tôi vừa len lỏi giữa mớ rau cải cá cua, hấp tấp nhảy tránh các bà đi chợ vừa tặc lưỡi tiếc rẽ: “Phải chi hôm đó mình lãnh cuốn địa cho rồi!”
Hiền không có nhà. Má nó đon đả:
– Ngồi chơi đi cháu! Cháu học chung lớp với Hiền hả! Tìm nó có chuyện chi không?
Nghe tôi nói đi mượn sách má nó bảo:
– Vậy thì cháu ngồi chơi chờ nó một chút! Nó cũng sắp về rồi!
Rồi bà đi rót nước mời tôi uống.
– Hiền đi đâu vậy bác? – Tôi hỏi.
– À, nó đi bán chè.
– Ủa, chè gì, bác? -Tôi ngạc nhiên.
Má Hiền cười:
– Thì chè ăn chớ chè gì, cháu! Chè đậu đen, đậu đỏ, xôi nước, đủ thứ vậy mà!
Tôi chưng hửng. Nhỏ Hiền lớp tôi đi bán chè? Ngộ thiệt! Học trò mà đi bán chè! Tôi cứ nghĩ đã là học trò thì chỉ đi học hoặc đi chơi thôi chớ. Như tôi và thằng Tin chẳng hạn, từ nhỏ tới lớn có bán chác gì đâu! Thằng Tin siêng thì chúi đầu vô tập, tôi làm biếng thì chạy rông ngoài đường, ngoài bãi bóng. Ai lại đi bán chè! Đó là chuyện của người lớn. Mình mà ngoác mồm rao “Ai ăn chè không?” rủi đứa bạn nào nghe thấy nó cười thúi đầu.
Dường như không để ý đến vẻ mặt ngơ ngác của tôi, má Hiền nói tiếp:
– Con Hiền đi bán từ một giờ đến bốn giờ chiều. Sau đó tới phiên bác bán tơi khuya. Cháu nghĩ coi, từ hồi bác trai sưng gan nghỉ hát tới giờ, một mình bác xoay xở sao nổi. Thành ra con Hiền nó phải phụ với bác một tay. Tội nghiệp, nó siêng học lắm, tối nào cũng thức học bài tới khuya. Năm ngoái, bác bệnh lên bệnh xuống, nó phải gồng gánh mọi việc nên bài vở bỏ bê, rốt cuộc không lên lớp nổi với người ta, nghĩ mà thương!
Nói xong, má nó chép miệng thở dài. Còn tôi thì nghe ngùi ngùi trong bụng. Té ra nhỏ Hiền cực thiệt. Ở lớp, nhìn bộ tịch chững chạc, mặt mày lúc nào cũng tươi cười, ai biết nó về nhà phải bán phụ gia đình vất vả như vậy.
Tôi tò mò quan sát căn nhà. Hình như nhà Hiền còn nghèo hơn nhà Bảy. Bảy còn có bàn học chớ ở đây chẳng có gì ráo. Có mỗi cái bàn con con thì đã dùng làm bàn thờ mất rồi. Ở góc nhà có cái giường tre, lủng lẳng phía trên là cái kệ nhỏ cột ép vô vách bằng dây kẽm, chứa đầy sách vở. Có lẽ đó là chỗ ngủ đồng thời là chỗ ngồi học của Hiền. Nãy giờ, chủ khách đều ngồi trên những chiếc ghế con, giống như loại ghế bày ở các quán cóc, và ở giữa cũng là một cái ghế con cùng loại giả làm bàn, trên để hai ly nước.
– Uống nước đi cháu! – Má Hiền giục tôi.
– Dạ!
Tôi cầm ly nước lên nhưng chưa kịp uống đã vội vã đặt ngay xuống. Hiền, với quang gánh trên vai, xuất hiện thình lình ngay trên ngạch cửa.
– Huy tới chơi hả? Bạn tới lâu chưa?
Hiền hỏi mà như reo. Nó hấp tấp bước lại góc nhà đặt gánh chè xuống. Chắc nó không ngờ tôi tới nhà nó hôm nay.
– Cũng mới tới! – Tôi cười, trả lời.
Má Hiền hỏi:
– Bán hết không con?
Hiền vui vẻ:
– Hết sạch, má!
Không hiểu sao tôi cảm thấy vui lây cái vui của Hiền.
Trong khi má nó đem gánh chè xuống nhà dưới chuẩn bị cho buổi bán tối thì nó lại ngồi sát bên tôi. Dang nắng cả buổi nên mặt Hiền đỏ bừng, những sợi tóc mai dính bết vào hai bên thái dương. Nó hỏi nhưng mắt thì nhìn chổ khác:
– Huy có mang bản tên tới không?
Tôi đoán đằng nào Hiền cũng hỏi câu đó. Thiệt y chang! Tôi tươi tỉnh móc từ túi áo ra tấm bảng tên ép ni-lông đàng hoàng, đẹp không thua gì cái của thằng Bảy:
– Mình có mang đây nè!
Hiền trố mắt:
– Ủa, Huy ép ni-lông rồi hả? Hay quá hén! Tưởng chưa thì Hiền may giùm cho!
Mặt Hiền lộ vẻ thất vọng pha lẫn ngạc nhiên. Tôi không để Hiền ngạc nhiên lâu:
– Mình tới mượn Hiền cuốn sách địa.
Nói xong, tôi hơi ơn ớn. Tôi sợ nó móc ngoéo việc tôi tẩy chay cuốn địa bữa trước. Nhưng hình như Hiền đã quên chuyện đó, nó lục trên kệ lấy cuốn địa đưa tôi:
– Huy vẽ bản đồ chớ gì?
– Ừa.
Hiền rụt vai:
– Bản đồ Châu Âu khó lắm đó. Năm ngoái Hiền vẽ rồi mà năm nay vẽ còn sai.
– Vậy hả?
Tôi nói mà mắt thì nhìn quanh.
– Huy tìm gì vậy? – Hiền thắc mắc.
Tôi hạ giọng:
– Ba Hiền đâu rồi?
– Ổng đi nhậu rồi. Ổng nhậu tối ngày. Huy hỏi ổng chi vậy?
Tôi tò mò:
– Hồi trước ổng là ca sĩ hả?
– Đâu có! Ổng đóng tuồng.
– Tuồng gì?
– Cải lương đó!
Tôi xuýt xoa:
– Má tôi mê cải lương lắm! Ba bạn giỏi quá hén?
Hiền thở dài:
– Đó là hồi xưa! Ổng nhậu riết, sưng gan, nghỉ hát luôn. Vậy mà bây giờ ổng cứ xỉn hoài, can không được!
Tôi lại hỏi, không quan tâm đến lá gan cho lắm:
– Đi nhậu về, ổng có ca cải lương cho bạn nghe không?
Hiền lắc đầu:
– Có gì đâu mà ca! Ổng chuyên đóng vai nịnh không hà!
Rồi dường như không thích nói chuyện về cha mình, Hiền lảng sang chuyện khác:
– Huy giỏi toán không?
Tôi giật thót người. Sao khi không con nhỏ này hỏi câu độc vậy cà! Đang nói cải lương tự nhiên lại quay sang toán, thiệt lãng xẹt! Tôi khụt khịt mũi, nói lấp lững:
– Cũng tàm tạm!
Chữ “tàm tạm” ngó vậy mà rất hay. Nó vừa có nghĩa không giỏi lắm (ai mà dám vỗ ngực tự xưng là giỏi?) vừa có nghĩa không dở lắm, tóm lại là vừa đủ sức đua tài với thiên hạ. Nó còn toát ra vẻ khiêm tốn kiểu bề trên, như ẩn giấu một sứ mạng bí mật đáng sợ.
Tôi tưởng Hiền hỏi cho biết vậy thôi, ai dè nó lại thò tay vô kệ lôi cuốn bài tập toán ra. Nó rút sách mà tôi cảm giác như nó rút gươm.
Nó “vung gươm lên”:
– Hôm qua học đại số. Hiền chưa hiểu lắm phương pháp dùng hằng đẳng thức, Huy giảng lại dùm Hiền nghen!
Tôi “né”:
– Thôi để hôm khác đi. Hôm nay mình phải vô bệnh viện thăm đứa em bị bệnh. Phải đi sớm không thì bệnh viện đóng cửa.
Thế là tôi phóng một mạch, quên cả chào mẹ Hiền. Còn Hiền thì chưa kịp hỏi thăm bệnh tình em tôi đã thấy tôi mất hút trong chợ. Chắc nó thắc mắc dữ lắm, tôi nhủ bụng, nhưng thôi, kệ nó, mình phải lo cái mạng mình, khi nãy mà nán lại thì rắc rối to! Chỉ tội là tội thằng Tin, tự nhiên bị tôi “trù”, rủi nó bệnh thiệt thì nguy. Mà không hiểu sao khi nói dối, miệng tôi trơn như thoa mỡ, không vấp lấy một chữ. Thiệt lạ lùng! Tôi thở dài một tiếng, không biết là nên vui hay nên buồn.

* * *

Tôi kể cho má tôi nghe chuyện nhỏ Hiền. Rồi kết luận:
– Tội nó ghê hén má?
– Ừ.
Má tôi đồng tình với nhận xét của tôi, nhưng dường như thấy còn thiếu nên má tôi bổ sung:
– Con cái người ta thì như vậy đó. Đi học về phải phụ giúp gia đình. Thằng Bảy con bác Tám Ngữ cũng vậy, về nhà là giúp má bán kẹo, trông em. Còn mày thì chẳng được cái tích sự gì, nội chuyện lặt vặt trong nhà cũng làm không xong, lúc nào cũng đùn cho thằng Tin.
Thằng Tin đứng cạnh vỗ tay hét ầm lên:
– Lêu lêu, mắc cỡ! Lêu lêu!
Tôi phụng phịu:
– Tại má không kêu con làm!
– Hơi đâu việc gì cũng kêu! Hễ thấy cái gì trái con mắt thì tự động dọn dẹp chớ! Lớn rồi chớ còn nhỏ nhít gì nữa!
Bị má rầy, tôi thấy tủi tủi làm sao. Còn thằng Tin thì cứ nhảy nhót quanh bàn, cái miệng tía lia:
– Lêu lêu! Lêu lêu!
Mặt nó nhơn nhơn ngó dễ ghét. Tôi xô ghế xuống đứng dậy, quên bén việc nó bị tôi trù cho nằm bệnh viện:
– Mày có im mồm đi không?
Thằng Tin đâu có ngán. Nó nhảy nấp sau lưng má tôi khiến tôi không làm gì được.
Tối đó, ăn cơm xong, tôi thu dọn chén đũa trước cặp mắt ngạc nhiên của ba tôi. Ông đằng hắng:
– Á à, chuyện lạ bốn phương!
Má tôi thì tủm tỉm cười.
Tôi khệ nệ bê chồng chén đĩa xuống bếp, bỏ vô thau rồi bắt đầu mở vòi nước. Bắt đầu từ hôm nay tôi quyết chứng minh cho mọi người thấy tôi không phải là tên làm biếng, tôi quyết rửa sạch tiếng oan từ trước đến giờ.
Tôi ngồi chồm hổm bên thau chén, kéo hộp xà phòng lại gần và xát miếng ruột mướp khô lên đó.
Thằng Tin đứng kè kè bên cạnh, hai tay chống lên đầu gối, lặng lẽ quan sát. Nó làm như tôi rửa chén là hiện tượng lạ trên sao hỏa không bằng.
Tôi giả vờ như không trông thấy nó, lẳng lặng chà xà phòng lên từng cái chén một. Nhưng tôi chưa kịp chà đến cái thứ hai, Tin đã la toáng lên:
– Rửa qua nước một lược đã chớ! Ai lại chà xà phòng ngay từ đầu!
Chậc! Lại có chuyện đó nữa! Nhưng chẳng lẽ để lộ ra là mình không biết gì hết! Tôi cau mặt:
– Kệ tao! Tao rửa theo kiểu của tao!
Tin vẫn đứng nhìn lom lom. Khi tôi cầm đến cái dĩa sứ trắng, nó lại lên tiếng:
– Cái đĩa quý nhất của má đó! Coi chừng anh đập bể bây giờ!
Thiệt bực mình cái thằng quỷ con này. Nó cứ làm như tôi là em nó. Tôi quay lại gắt:
– Mày làm gì mà bép xép hoài vậy! Đi chỗ khác cho tao làm việc!
Nó lùi một bước nhưng không đi:
– Em đứng đây em coi.
– Có gì mà coi.
Nó nheo mắt:
– Coi thử anh rửa chén có sạch không!
Nếu trên tay tôi là cục gạch chứ không phải là cái đĩa sứ thì thằng Tin chết với tôi rồi. Tôi nén giận ngồi im, tay tiếp tục miết miếng ruột mướp đẫm xà phòng quanh đĩa, bụng bảo dạ: “Nó nói gì kệ nó, cứ coi như không có nó trên trái đất này vậy”. Nhưng vì giận quá hóa run tay, phần khác do xà phòng trơn nhẫy, nên cái đĩa đột ngột tuột khỏi tay tôi, rớt xuống nền gạch. Một tiếng “xoảng” vang lên điếc tai.
Trong khi mặt tôi xám ngoét thì thằng Tin la ầm ĩ:
– Anh Huy làm bể đĩa rồi, má ơi!
Sự việc sau đó tất nhiên là không thể nào diễn ra khác được. Tôi bị “đuổi khỏi chổ làm” sau khi bị “quần” cẩn thận. Tuy nhiên tôi chưa đến nổi thất nghiệp. Cuối bài giáo huấn về kỷ thuật lao động và nghệ thuật rửa chén, má tôi “chuyển công tác” cho tôi:
– Thôi lên nhà trên kèm cho thằng Tin học đi! Không có chạy đi chơi nghe chưa!
Hai anh em lên nhà trên. Tôi rầu rĩ còn Tin thì tươi hơn hớn. Tôi gieo người xuống ghế và hất hàm:
– Đem tập ngữ pháp ra đây, tao giảng cho!
Tin lẳng lặng đi lấy tập.
Nhưng không phải tập ngữ pháp. Tôi điếng người khi thấy chữ “hình học” ngoài nhãn vở:
– Tao kêu đem tập ngữ pháp kia mà!
– Ngày mai em đâu có tiết ngữ pháp. Chỉ có bài tập hình này thôi, anh giảng giùm em đi!
Tôi ngán ngẩm trong bụng. Hồi chiều nhỏ Hiền cũng nhờ tôi giảng toán, giờ tới thằng quỷ con này. Tụi nó làm như tôi là Lê Bá Khánh Trình không bằng! Sao hôm nay xui dữ vậy không biết! Tôi thấp thỏm lật cuốn tập toán của Tin, hy vọng toán lớp Bảy đầu năm không đến nổi khó lắm. Chắc là bài tập ngăn ngắn về đường thẳng hay đoạn thẳng gì đó thôi.
Đúng như tôi nghĩ, đó là một bài toán nhỏ về đoạn thẳng:
“Một đoạn thẳng AB = 18cm được chia làm hai phần AC và BC không bằng nhau. Tính khoảng cách từ điểm giữa I của AC đến điểm giữa K của CB”.
Tôi thở phào. Tưởng gì! Bài này tụi lớp năm còn làm ra nữa là mình. Tôi nhìn thằng Tin, lên giọng:
– Học hành như mày thì chết rồi. Bài toán dễ ợt vậy mà cũng không hiểu!
Tin chồm người lên bàn, dòm vào bài toán:
– Hôm trước, em xin phép về thăm ngoại nên không học bài này. Thôi anh giảng cho em đi!
Tôi cầm cây viết lên, giọng hách dịch:
– Nghe đây nè!
Tôi nhẩm lại đề toán. Ủa, sao kỳ vậy cà? Ít ra đề toán phải cho biết đoạn AC hoặc CB bằng bao nhiêu, từ đó mới biết phần còn lại, rồi mới tính khoảng cách giữa hai điểm I và K được chớ. Hay đề toán sai? Không có lẽ! Tôi nhẩm tới nhẩm lui một hồi, mồ hôi ướt trán. Tôi cố nhớ lại năm ngoái mình đã làm bài này chưa nhưng không tài nào nhớ ra.
Thằng Tin thấy tôi ngồi lâu quá, liền giục:
– Nghĩ gì nghĩ hoài vậy? Giảng đi chớ!
Tôi tìm cách xoay chuyển tình thế. Biết thằng Tin là đứa không chịu để ai nói nặng, tôi nhún vai:
– Tao đang nghĩ coi tại sao mày lại dốt đến mức không giải được bài toán này. Đây là toán dành cho cấp một!
Tin trúng kế ngay. Bị chạm nọc, nó giật phăng cuốn tập:
– Em mượn anh giảng bài chớ không mượn anh xài xể!
Tôi mừng rơn trong bụng. Nhưng ngoài mặt vẫn làm bộ làm tịch:
– Để cuốn tập đó! Trước khi giảng tao phải chỉ cho mày cái dốt của mày chớ xài xể cái gì!
Tin không thèm nghe tôi nói hết câu, nó cuộn cuốn tập lại cầm tay và phấp ra cửa:
– Em cóc cần anh giảng! Em qua hỏi thằng Luận con chú Thảo.
Tôi nghe như ai vừa nhấc cục đá khỏi vai mình.
Má tôi từ dưới nhà lên, không thấy Tin, liền hỏi:
– Thằng Tin đâu?
– Nó qua chơi nhà chú Thảo rồi. Để con đi kêu nó về.
Tôi chạy ra khỏi nhà, nhưng không qua nhà chú Thảo mà phóng thẳng tới nhà thằng Bảy.
– Có một bài toán mẹo trong báo, mày giải giùm tao đi!
Tôi vừa thở hổn hển vừa nói với Bảy.
Nghe xong đề toán, Bảy nhìn tôi với vẻ nghi ngờ:
– Mày đừng có xạo! Đây là toán lớp bảy chứ toán mẹo cái gì!
Ai chứ thằng Bảy thì nó đi guốc trong bụng tôi. Biết không thể giấu nó, tôi cười xòa:
– Giỡn chơi với mày chớ toán của thằng Tin đó!
Bảy thản nhiên:
– Có gì khó đâu! Khoảng cách giữa I và K là 9cm.
Tôi giật mình:
– Giỡn hoài mày! Người ta có cho biết chiều dài của đoạn AC và CB đâu!
– Chiều dài của hai đoạn đó có là mấy đi chăng nữa thì khoảng cách của hai điểm giữa vẫn không thay đổi bởi AB là đoạn thẳng cố định.
Nói xong, Bảy bắt đầu phân tích. Càng nghe, tôi càng thấy dễ. Thiệt không có bài toán nào trên thế giới lại dễ đến như vậy! Chẳng hiểu sao lúc nãy tôi không nghĩ ra.
Dọc đường về, con số 9cm hiện rõ trong óc tôi như một bí mật đơn giản. Lát về nhà, tôi sẽ “nạo” cho thằng Tin một trận. Chẳng hiểu nó học hành như thế nào mà có bài toán đễ ợt vậy cũng giải không ra!

Chương 4:

Sáng nay, tôi vừa ló mặt vô lớp, thằng Đại đã hỏi giật:
– Sao giờ này mày mới tới?
Tôi giả vờ ngạc nhiên:
– Chưa có trống vô lớp mà!
– Nhưng hôm nay tổ mình trực sinh.
Tôi chép miệng:
– Chà, tao quên đi mất!
Đại nhìn tôi, nghi ngờ:
– Sao mày quên hoài vậy? Kỳ trước mày cũng quên!
Tôi nhăn mặt:
– Thì tại tính tao hay quên.
Đại không hỏi gì thêm, nó chỉ dặn:
– Lần sau ráng nhớ nghen! Mày bỏ trực sinh hoài, cuối năm bị xếp loại lao động kém đừng có trách!
Thằng Đại này, từ khi làm tổ trưởng đến giờ nó sinh ra nhiều chuyện kinh khủng. Lúc nào nó cũng vặn vẹo hỏi tới hỏi lui hết việc này đến việc khác và nhất là luôn luôn “hù” tôi. Lần này, nghe nó nói, tôi phát bực:
– Bao giờ mày cũng làm ra vẻ quan trọng. Các tổ khác thiêú gì đứa quên trực sinh.
– Thằng này lạ! Sao mày không bắt chước những đứa khá mà cứ đi so bì với những đứa lười! Với lại, tổ mình khác những tổ kia, tổ mình có thằng Bảy!
Đang lúc đó thì Bảy đi cà nhắc vô, chổi kẹp dưới nách. Thấy vậy, tôi hơi ngượng. Đúng ra thì Bảy không phải trực sinh. Hôm trước cả tổ đã nhất trí miễn lao động cho nó. Nhưng cả hai kỳ liên tiếp vì tôi vắng mặt nên Bảy vẫn phải tham gia quét lớp và khiêng dọn bàn ghế. Đằng nào tổ tôi cũng phải làm vệ sinh cho lớp thiệt sạch trước khi có trống vô học nếu không muốn các tổ khác phê bình và thầy Dân kiểm điểm trong giờ chủ nhiệm đầu tuần.
Thực ra, công việc trực sinh chẳng có gì là nặng nhọc cả. Nhưng không hiểu sao tôi lại hay tim` mọi cách để trốn tránh. Dường như tật làm biếng đã ăn sâu trong người tôi, tôi ngán cả việc nặng lẫn việc nhẹ. Và tôi thực hiện chuyện “tránh né” đó một cách tự nhiên, không suy nghĩ. Nhưng hôm nay, hình ảnh của Bảy tình cờ đập vào mắt khiến tôi cảm thấy áy náy dễ sợ. Nhất là lúc này bàn ghế đã được sắp xếp gọn gàng, ngay ngắn, sàn lớp sạch sẽ, tinh tươm, không có lấy một cọng rác. Điều đó càng khiến tôi thấy rõ rệt sự vô tích sự của mình, kẻ chuyên môn đi trễ để hưởng lấy công sức lao động của người khác.
Nỗi bức rức mới mẻ đó khiến tôi vừa xấu hổ vừa bực bội. Tôi tìm cách che lấp khuyết điểm của mình:
– Nhằm nhò gì chuyện quét lớp!
– Không nhằm nhò gì nhưng lớp đã phân công, mình phải làm đến nơi đến chốn chớ!- Đại tiếp tục sửa lưng tôi – Với lại đối với Hiền và Bảy, chuyện khiêng ghế đâu phải là nhẹ.
Nhỏ Hiền nghe nhắc tới mình liền xen vô:
– Lúc nãy tụi mình còn quét mạng nhện trên nóc nữa kìa!
Tôi nhún vai:
– Tưởng gì! Quét mạng nhện mà cũng khoe!
Thằng Quang ở đâu ngoài sân chạy vô, nghe nói tới nhện liền “mở máy”:
– Mày biết không, giống nhện Ta-ran-tu-la ngộ lắm! Mỗi lần đến tổ nhện cái, con nhện đực đều mang quà ra mắt hẳn hoi. Nó bọc quà trong một lớp tơ mỏng do những tuyến ngoại tiết ở các đầu ngón chân tiết ra. Vừa bước đến tổ là nó đã…
Lúc này tôi không còn hứng thú gì để nghe chuyện loài vật huyên thuyên của Quang, tôi cắt lời nó cái rụp:
– Thôi dẹp thứ nhện Ta-ran-tu-la khỉ gió của mày đi!
Tôi ôm cặp đi về chỗ ngồi trước cái miệng há hốc của nhà sinh vật. Nó không hiểu tại sao tự dưng tôi lại sửng cồ như một con gà chọi vậy.

Facebook Google Plus Twitter
Cùng chuyên mục
Tôi Đã Quá Giang Một Chuyến Xe Ma
Kịch bản bóng đá
Mù màu !
Nhầm lẫn
Những Mối Tình Đã Qua