I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Từ ngữ xưng hô và việc sử dụng từ ngữ xưng hô
a) Hãy kể ra một số từ ngữ thường dùng để xưng hô trong tiếng Việt.
Gợi ý: Thường ngày em vẫn dùng những từ ngữ nào để xưng hô (xưng mình và gọi người khác)? Ví dụ: tôi – chúng tôi; bạn – các bạn; nó – chúng nó (họ); ta – chúng ta; anh, bác, ông – các anh, các bác, các ông; tao – chúng tao; mày – chúng mày; anh ấy, chị ấy,…
b) Xác định từ ngữ xưng hô trong hai đoạn trích sau:
(1) Dế Choắt nhìn tôi mà rằng:
– Anh đã nghĩ thương em như thế thì hay là anh đào giúp cho em một cái ngách sang bên nhà anh, phòng khi tắt lửa tối đèn có đứa nào đến bắt nạt thì em chạy sang…
Chưa nghe hết câu, tôi đã hếch răng lên, xì một hơi rõ dài. Rồi, với bộ điệu khinh khỉnh, tôi mắng:
– Hức! Thông ngách sang nhà ta? Dễ nghe nhỉ! Chú mày hôi như cú mèo thế này, ta nào chịu được. Thôi, im cái điệu hát mưa dầm sùi sụt ấy đi. Đào tổ nông thì cho chết!
Tôi về, không chút bân tâm.
(2) Choắt không dậy được nữa, nằm thoi thóp. Thấy thế, tôi hốt hoảng quỳ xuống, nâng đầu Choắt lên mà than rằng:
– Nào tôi đâu biết cơ sự lại ra nông nỗi này! Tôi hối lắm! Tôi hói hận lắm. Anh mà chết là chỉ tại cái tội ngông cuồng dại dột của tôi. Tôi biết làm thế nào bây giờ?
Tôi không ngờ Dế Choắt nói với tôi một câu thế này:
– Thôi, tôi ốm yếu quá rồi, chết cũng được. Nhưng trước khi nhắm mắt, tôi khuyên anh: ở đời mà có thói hung hăng bậy bạ, có óc mà không biết nghĩ, sớm muộn rồi cũng mang vạ vào mình đấy.
(Tô Hoài, Dế Mèn phiêu lưu kí)
Gợi ý:
– Dế Mèn (nhân vật kể chuyện) tự xưng là gì?
– Dế Choắt xưng hô thế nào với Dế Mèn?
– Dế Mèn xưng hô thế nào với Dế Choắt?
Dế Mèn – nhân vật kể chuyện xưng “tôi”; Dế Mèn xưng hô với Dế Choắt: ta – chú mày trong đoạn trích (1), tôi – anh trong đoạn trích (2). Dế Choắt xưng hô với Dế Mèn: em – anh trong đoạn trích (1), tôi – anh trong đoạn trích (2).
c) So sánh cách xưng hô giữa hai nhân vật Dế Mèn – Dế Choắt trong hai đoạn trích. Sự thay đổi cách xưng hô giữa hai nhân vật trong hai đoạn trích trên có ý nghĩa như thế nào?
Gợi ý: Sự thay đổi cách xưng hô giữa hai nhân vật trong hai đoạn trích cho thấy sự thay đổi về vị thế của các nhân vật này trong hai tình huống giao tiếp. Phân tích mối quan hệ giữa hai nhân vật trong hai đoạn trích để thấy được tính chất khác nhau giữa hai tình huống giao tiếp. Giữa hai đoạn trích, trong câu chuyện đã có biến cố gì xảy ra? Biến cố này có ảnh hưởng gì đến sự thay đổi trong cách xưng hô của Dế Mèn và Dế Choắt? Ở đoạn tích thứ nhất, có sự bình đẳng không trong cách xưng hô của hai nhân vật giao tiếp? Tại sao Dế Mèn và Dế Choắt lại thay đổi cách xưng hô với nhau trong đoạn trích thứ hai?
d) Như vậy, trong giao tiếp cần phải lựa chọn từ ngữ xưng hô như thế nào?
Gợi ý: Lưu ý đến tình huống giao tiếp và mối quan hệ giữa người nói với người nghe trong tình huông giao tiếp để lựa chọn từ ngữ xưng hô cho thích hợp.
II. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG
1. Một vị giáo sư Việt Nam nhận được một tấm thiếp mời dự đám cưới của một nữ sinh viên người châu Âu đang học tiếng Việt, trên tấm thiếp mời có ghi:
Ngày mai, chúng ta làm lễ thành hôn, mời thầy đến dự.
Các từ ngữ được dùng trong câu trên có đúng không? Người viết đã phạm phải sai lầm gì?
Gợi ý: Cần phân biệt các phương tiện từ ngữ chỉ ngôi:
– chúng ta: gồm cả người nói và người nghe;
– chúng tôi/chúng em: không gồm người nghe;
– chúng mình: có thể gồm người nghe hoặc không.
Việc dùng từ xưng hô chúng ta trong câu trên có thể dẫn đến sự hiểu lầm nào? Cần dùng từ nào để xưng trong tình huống này? Vì sao?
2. Lưu ý về cách dùng từ ngữ xưng hô trong các văn bản khoa học: Trong các văn bản khoa học, mặc dù có khi tác giả của văn bản chỉ gồm 1 người nhưng người ta vẫn xưng là chúng tôi. Việc dùng chúng tôi trong những trường hợp này là có dụng ý làm tăng tính khách quan trong ngôn ngữ khoa học và thể hiện sự khiêm tốn của tác giả. Cũng có khi tác giả của văn bản khoa học xưng tôi, khi đó người viết (nói) muốn nhấn mạnh quan điểm riêng của mình trước một vấn đề nào đó hoặc có ý bộc lộ tính chủ quan của ý kiến.
3. Đọc đoạn trích sau và nhận xét về cách xưng hô của cậu bé Gióng với mẹ và với sứ giả:
Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây”. Sứ giả vào, đứa bé bảo: “Ông về tâu vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này”.
(Thánh Gióng)
Điều gì được thể hiện trong cách xưng hô ấy?
Gợi ý: So sánh cách xưng hô giữa cậu bé Gióng với mẹ và với sứ giả. Cách xưng hô của cậu bé Gióng với sứ giả (ông – ta) có gì khác thường không? Điều này có liên quan gì đến sự ra đời khác thường của cậu bé trong câu chuyện?
4. Đọc câu chuyện sau và trả lời câu hỏi:
Chuyện kể rằng có một danh tướng trên đường kinh lí, một hôm đi ngang qua trường học cũ của mình, ông ghé vào thì gặp lại người thầy từng dạy ông ở lớp 1. Ông kính cẩn thưa:
– Thưa thầy, thầy còn nhớ em không? Em là…
Người thầy giáo già hoảng hốt:
– Thưa ngài, ngài là…
– Thưa thầy, với thầy, em vẫn là đứa học trò cũ. Em có được những thành công hôm nay là nhờ sự giáo dục của thầy ngày nào…
Cách xưng hô của danh tướng với người thầy như thế nào? Cách xưng hô của người thầy với học trò cũ của mình có gì khác thường không? Tại sao lại như vậy?
Gợi ý: Cách xưng hô của vị tướng đối với thầy của mình thể hiện thái độ tôn trọng người đã dạy dỗ mình. Cách xưng hô của người thầy với vị tướng thể hiện sự khiêm tốn, lịch sự và thể hiện sự tôn trọng người đối thoại với mình. Câu chuyện trên khuyên chúng ta phải biết “tôn sư trọng đạo”.
5. Đọc đoạn trích sau và cho biết Bác đã xưng hô với nhân dân như thế nào? Cách xưng hô ấy thể hiện điều gì?
Đọc bản Tuyên ngôn Độc lập đến nửa chừng, Bác dừng lại và bỗng dưng hỏi:
– Tôi nói, đồng bào nghe rõ không?
Một triệu con người cùng đáp, tiếng dậy vang như sấm:
– Co.o.ó…!
Từ giây phút đó, Bác cùng với cả biển người đã hoà làm một…
(Võ Nguyên Giáp kể, Hữu Mai ghi, Những năm tháng không thể nào quên)
Gợi ý: Tra từ điển Hán Việt để hiểu được nghĩa của từ đồng bào. Việc Bác Hồ, người đứng đầu nhà nước Việt Nam lúc bấy giờ, xưng tôi và gọi nhân dân là đồng bào thể hiện sự gần gũi, gắn bó, bình đẳng trong quan hệ giữa lãnh tụ và nhân dân.
6. Trong đoạn trích sau, những từ ngữ nào được dùng để xưng hô?
Gõ đầu roi xuống đất, cai lệ thét bằng giọng khàn khàn của người hút nhiều xái cũ:
– Thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền sưu! Mau!
Hoảng quá, anh Dậu vội để bát cháo xuống phản và lăn đùng ra đó, không nói được câu gì. Người nhà lí trưởng cười một cách mỉa mai:
– Anh ta lại sắp phải gió như đêm qua đấy!
Rồi hắn chỉ luôn vào mặt chị Dậu:
– Chị khất tiền sưu đến chiều mai phải không? Đấy! Chị hãy nói với ông cai, để ông ấy ra đình kêu với quan cho! Chứ ông lí với tôi thì không có quyền dám cho chị khất một giờ nào nữa!
Chị Dậu run run:
– Nhà cháu đã túng lại đóng cả suất sưu của chú nó nữa, nên mới lôi thôi như thế. Chứ cháu có dám bỏ bễ tiền sưu của của nhà nước đâu? Hai ông làm phúc nói với ông lí cho cháu khất…
Cai lệ không để cho chị được nói hết câu, trợn ngược hai mắt, hắn quát:
– Mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước mà dám mở mồm xin khất!
Chị Dậu vẫn thiết tha:
– Khốn nạn! Nhà cháu đã không có, dẫu ông có chửi mắng cũng đến thế thôi. Xin ông trông lại!
Cai lệ vẫn giọng hầm hè:
– Nếu không có tiền nộp sưu cho ông bây giờ, thì ông sẽ dỡ cả nhà mày đi, chửi mắng thôi à!
Rồi hắn quay ra bảo anh người nhà lí trưởng:
– Không hơi đâu mà nói với nó, trói cổ thằng chồng nó lại, điệu ra đình kia!
Người nhà lí trưởng hình như không dám hành hạ một người ốm nặng, sợ hoặc xảy ra sự gì, hắn cứ lóng ngóng, ngơ ngác, muốn nói mà không dám nói. Đùng đùng, cai lệ giật phắt cái thừng trong tay anh này và chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu:
Chị Dậu xám mặt, vội vàng đặt con xuống đất, chạy đến đỡ lấy tay hắn:
– Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!
– Tha này! Tha này!
Vừa nói hắn vừa bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi lại sấn đến để trói anh Dậu.
Hình như tức quá không thể chịu được, chị Dậu liều mạng cự lại:
– Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ!
Cai lệ tát vào mặt chị một cái đánh bốp, rồi hắn cứ nhảy vào cạnh anh Dậu.
Chị Dậu nghiến hai hàm răng:
– Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!
(Ngô Tất Tố, Tắt đèn)
Gợi ý: Chú ý các từ ngữ in đậm.
7. Cuộc đối thoại trong đoạn trích trên diễn ra giữa những nhân vật nào? Các nhân vật này có vị thế xã hội, tính cách ra sao? Điều này có liên quan gì đến cách xưng hô?
8. Trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ, Ngô Tất Tố đã rất thành công khi xây dựng tình huống truyện đầy kịch tính, thể hiện rõ cá tính của các nhân vật. Hãy phân tích cách xưng hô của các nhân vật trong lời thoại để thấy được điều này.
Gợi ý: Đọc lại đoạn trích Tức nước vỡ bờ và ôn lại những kiến thức khi đọc văn bản này. Tham khảo đoạn văn sau để hiểu được ý nghĩa của cách dùng đại từ xưng hô trong đoạn trích trên:
“Thoạt đầu chị xưng cháu gọi cai lệ bằng ông. Nhưng đáp lại những lời lẽ thấu tình đạt lí của chị là: Mày định nói cho cha mày nghe đấy à?”, rồi: “Ông sẽ dỡ cả nhà mày đi”, chưa hết: “Đùng đùng, cai lệ giật phắt cái thừng trong tay anh này và chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu”. Đến lúc này, chị Dậu vẫn một mực tha thiết: “Cháu van ông,… ông tha cho!”. Đến mức như thế nhưng cai lệ không những không mủi lòng mà còn đấm vào ngực chị Dậu mấy đấm. Đến đây, bắt đầu thấy những dấu hiệu của sự phản kháng: chị xưng tôi, gọi cai lệ là ông. Không thể chịu được nữa, chị Dậu đã đứng lên, với vị thế của kẻ ngang hàng, trực diện với kẻ thù.
Quá trình diễn biến ấy được đẩy lên đỉnh điểm, kịch tính đã hết mức căng thẳng khi tên cai lệ tát “đánh bốp” vào mặt chị Dậu. Thế là thực sự bắt đầu một giai đoạn mới của sự phản kháng, chị xưng bà gọi mày với tên cai lệ. Từ cháu – ông đến tôi – ông và đến đây là bà – mày, niềm căm phẫn đang bốc lên ngùn ngụt trong người phụ nữ nông dân ấy.”