<?php the_title(); ?>

Còn Chút Gì Để Nhớ

09.07.2014
Admin

Truyện: Còn Chút Gì Để Nhớ

Tác giả: Nguyễn Nhật Ánh.
Tình trạng: Hoàn thành.
Post bởi: HaySo1.Vn

***********************

Chap 1:

Dường như khi trở thành một chàng trai mười tám tuổi, không chú bé nào là không phấn khởi. Đối với tôi cũng vậy, đó là một ngày kỳ diệu vô cùng.

Tôi còn nhớ trước đó hai năm, khi một đứa bạn cùng lớp hí hửng khoe: “Thế là năm nay tao mười tám tuổi”…tôi đã ghen tị một cách khổ sở với hạnh phúc của nó. Mặc dù lớn xác như nó, đi học trễ hơn bạn bè hai, ba năm, chẳng được cái vinh dự gì ngoài mỗi “ưu điểm” to con nên được cô chủ nhiệm phân làm lớp trưởng. Tuy nhiên mười tám tuổi vẫn cứ là mười tám tuổi, vẫn cứ là cái tuổi oai vệ, đáng ao ước và đầy bí mật đối với bọn nhóc tì như tôi. Lúc đó, tôi đã cay đắng vô cùng khi nhận ra rằng mình phải phấn đấu đến hai năm đằng đẵng nữa mới được như nó.
Thế rồi mải học hành, mải vui chơi, tôi quên béng mất sự mong ngóng nôn nao của mình. Đùng một cái, nó tới lúc nào chẳng hay, cái tuổi mười tám ấy. Nó tới và nhe răng cười với tôi, vào một buổi sáng rực rỡ đầy ắp nắng hồng và hương thơm.
Mười tám tuổi, tôi có hai niềm vui rộng lớn, hai bước đi quan trọng trong cuộc đời: một chân bước vào ngưỡng cửa người lớn, và một chân chuẩn bị bước vào ngưỡng cửa đại học.
Cửa người lớn thì rộng, trẻ em tới tuổi cứ xộc vào tự do, chẳng ai cấm cản hay soát vé. Nhưng cửa vào đại học thì không phải dành cho tất cả mọi người. Muốn vào phải thi mà phải thi đậu kia!
Quê tôi không có trường đại học. Hồi nhỏ tôi học cấp một ở trường xã, những ngày lười đi học bị mẹ vác roi rượt chạy tới tận cổng trường. Lên cấp hai, phải ra trường huyện. Lên cấp ba, lại ra tỉnh lỵ. Trường tỉnh chỉ mới mở lớp mười. Tôi tính học xong lớp mười sẽ xin ra thành phố học tiếp. Nhưng tôi vừa học xong lớp mười, trường mở thêm lớp mười một. Tôi học hết lớp mười một, trường lại mở lớp mười hai. Tôi đã học lê lết hết trường này đến trường khác nhưng thật tôi chưa thấy trường nào dễ thương như trường tôi đang học. Làm như ban giám hiệu sợ tôi buồn nên cứ mở hết lớp này đến lớp khác cho tôi học.
Nhưng đến khi học hết lớp mười hai thì tôi đành phải giã từ tỉnh lỵ. Lúc đó, tôi đã thi đỗ tú tài hai với hạng bình thứ, một thứ hạng thường thường bậc trung nhưng cũng đủ cho tôi dọn đường vào đại học.
Những học sinh tỉnh lẻ miền Trung như tôi, muốn vào đại học phải chọn hai nơi: hoặc ra Huế, hoặc vào Sài Gòn. Tôi phân vân hoài không biết nên đi ra ngõ ngoài hay đi vào ngõ trong. Ba tôi lúc này ở xa, không góp ý gì cho tôi được. Là sĩ quan quân đội, ông bị điều động đi hết nơi này đến nơi khác, năm thì mười họa mới tạt về thăm gia đình. Ở nhà chỉ có mấy mẹ con tôi. Mẹ tôi thì suốt đời lo chuyện nội trợ trong nhà, đâu có rành ba cái chuyện “tiến thân” của tôi.
Tôi hỏi thì mẹ tôi hỏi lại:
– Vậy chớ thằng Hoa đi đâu?
Hoa là thằng bạn thân cùng lớp tôi hay dẫn về nhà chơi.
– Nó đi Huế! – Tôi đáp.
– Vậy thì mày đi Huế học cho có anh có em!
Cái kiểu mẹ tôi trả lời, muốn nghe cũng được, không nghe cũng không sao. Cái câu đó có nghĩa là: “Tùy mày!”.
Tôi bỏ ra đường quốc lộ đứng trông Nam trông Bắc một hồi. Cuối cùng, tôi quyết định xuất hành về hướng Nam. Kệ, đi Sài Gòn cho biết, tôi nhủ bụng, còn Huế thì mình đã đến một lần rồi!
Chuyến đi Huế của tôi xảy ra cách đây năm năm. Lúc đó tôi mới mười ba tuổi. Đó là một chuyến đi chẳng thú vị gì và bắt đầu bởi một tai họa không đâu. Một bữa trưa, đang ngồi ăn cơm, thấy hai con chó giành nhau khúc xương, cắn lộn ầm ĩ dưới gầm bàn, tôi liền đưa chân…can thiệp. Con Bi lễ phép, thấy chân chủ thò ra, cúi đầu chào một cái rồi cụp đuôi lảng mất. Còn con Mi- nô đang say máu, tưởng chân tôi là cục xương, bèn nhe răng đớp một phát, máu chảy ròng ròng.
Bị chó nhà cắn tưởng chuyện bình thường, không dè hai ngày sau con Mi- nô tự nhiên lăn đùng ra chết, mõm sùi bọt. Mẹ tôi hoảng lên, nghi con Mi- nô bị dại, bắt tôi đi chích thuốc.
Thuốc trị bệnh chó dại của viện Pasteur lúc đó chỉ có ở Qui Nhơn hoặc ở Huế. Nhưng ở Qui Nhơn, tôi không có bà con thân thích. Chú Năm, em ruột ba tôi, là trung sĩ quân y, đang đóng ở Huế. Thế là tôi theo cô tôi lên đường ra đất thần kinh, bụng thon thót cứ sợ chết dọc đường.
Vừa ra đến nơi, tôi chưa kịp thở đã vội vã theo chú Năm đến bệnh viện. Cái bệnh viện đó lớn nhỏ như thế nào, bây giờ tôi không nhớ. Ngược lại, tôi nhớ mãi, nhớ đến già cái mũi kim to sụ lầm mũi chích vào da bụng tôi cái thứ thuốc đùng đục, đau muốn thấu xương. Mỗi khi chích thuốc xong, bụng tôi nổi lên một cục to bằng quả trứng gà, dọc đường từ bệnh viện về nhà tôi phải lấy tay xoa mãi.
Ngày này qua ngày nọ, liên tiếp hơn nửa tháng trời, cứ khoảng chín giờ sáng tôi lại đến bệnh viện chích thuốc, thoạt đầu chú Năm dẫn tôi đi, về sau tôi đi một mình. Những lúc rảnh rỗi trong ngày, tôi cũng theo chú Năm đi đây đi đó nhưng trong trí nhớ của tôi những thắng cảnh của Huế nhạt nhòa hơn mũi kim tiêm kia nhiều. Nhưng dù sao tôi cũng đã đặt chân đến Huế.
Còn Sài Gòn thì trước nay tôi mới chỉ nghe nói đến, mới chỉ đọc trong sách báo, xem trong phim ảnh. Trong trí tưởng tượng của tôi, Sài Gòn như là một nước nào đó, kỳ diệu và lạ lẫm. Hiếm hoi lắm mới có một người ở quê đi Sài Gòn. Khi về, họ kể trăm chuyện lạ lùng, người lớn con nít ngồi bu quanh nghe như nghe chuyện cổ. Có người đi khoảng nửa tháng về, tiếng nói nghe cũng đã khác. Thay vì nói “trời đất ơi”, họ lại kêu “chèng đéc ơi”, nghe lạ hoắc. Họ không nói “khát nước quá xá” như trước đây mà nói “khát nước quá à ơi”. Như thằng Bảo con ông Năm Khang, đi Sài Gòn về ghé nhà tôi chơi, lúc chào về, nó không nói “về” như mọi khi mà lại nói “chào thím Sáu con dìa” khiến mẹ tôi phải ngớ người ra một hồi mới hiểu.
Nhưng thường thường những người này chỉ giả giọng Sài Gòn lấy oai với bà con chòm xóm chừng một tuần, lại trở về với cái giọng quê kiểng thường ngày của xứ tôi như cũ.
Tất nhiên tôi muốn vào học ở Sài Gòn không phải để Tết về thưa mẹ “con mới dìa” như kiểu thằng Bảo. Ở lứa tuổi mười tám, đôi mươi, con người ta ai cũng muốn đến những thành phố lớn, những chốn văn minh đô hội để mở mang hiểu biết và thử sức với đời. Nhất là một chàng trai tỉnh lẻ như tôi.
Ngày tôi lên đường, ngoài mẹ tôi và mấy đứa em tôi còn có rất nhiều bà con họ hàng tiễn tôi ra tận bến xe. Nếu ba tôi có nhà, có lẽ ông sẽ đi cùng với tôi vào Sài Gòn. Nhưng ba tôi không về được, tôi đành phải đi một mình.
Ngoài va- li đựng quần áo, sách vở, tôi còn mang theo một túi sách to tướng trong đó mẹ tôi nhét đủ thứ đồ ăn, thuốc men và bánh trái. Mấy ngày trước đó, các cô chú cậu mợ dì dượng của tôi đem biếu tôi không thiếu một thứ gì, làm như tôi là Robinson chuẩn bị ra hoang đảo vậy. Bánh trái các loại tôi đã ăn lấy ăn để hai ba ngày nay, vậy mà khi đi tôi chỉ có thể mang theo chừng một phần ba.
Cả tuần lễ nay, mẹ tôi đã dặn dò tôi đủ điều, vậy mà đến bây giờ, khi tôi đã ngồi trên xe rồi, mẹ tôi vẫn cảm thấy còn nhiều điều chưa kịp nói. Bà đứng bên cạnh thùng xe, thò tay qua ô cửa nắm chặt tay tôi, miệng không ngừng nhắc đi nhắc lại những câu tôi đã thuộc lòng.
Không hiểu sao tôi chẳng thấy buồn chút nào. Có lẽ tâm trí tôi mải nghĩ tới cuộc sống mới lạ và hấp dẫn đang chờ đợi tôi phía trước. Chỉ đến khi xe lăn bánh, ngoảnh đầu lại thấy mẹ và các em tôi cùng các cô dì chú bác khuất dần sau lớp bụi mờ, tôi mới hay mình đã khóc.

Chap 2:

Từ quê tôi vô Sài Gòn, xe chạy nhanh hơn hai ngày một đêm. Xe tới bến lúc tôi đang ngủ gà ngủ gật. Ông sồn sồn ngồi bênh cạnh lay vai tôi:
– Dậy đi chú em! Tới nơi rồi!
Tôi giật mình mở choàng mắt. Đợi hành khách xuống gần phân nửa, tôi lật đật chui ra.
Bến xe đông nghịt người. Quán xá chen chúc cả dãy dài. Hàng rong khắp nơi, tiếng rao inh ỏi. Trong khi tôi đang ngơ ngác trước cảnh tượng náo nhiệt thì đám xích- lô bu lại. Cả chục giọng chào mời:
– Thầy Hai đi đâu, lên xe tui chở về!
Tự dưng được thiên hạ kêu “thầy”, tôi vừa thinh thích vừa thấy ngồ ngộ. Trong khi tôi đang phân vân, chưa biết nên đi xe nào thì một anh thanh niên vẹt đám người bước tới giật chiếc va- li trên tay tôi rồi phăng phăng chạy đi.
Tôi đớ người tính la lên, bỗng anh thanh niên quay cổ lại kêu tôi trong khi chân vẫn tiếp tục rảo bước:
– Thầy Hai lại đây, tui chở về!
Không biết làm sao, tôi đành phải vội vã đuổi theo anh xích- lô quỷ quái nọ, trong bụng đã bắt đầu thấy ớn cái đất Sài Gòn. Đuổi theo tôi là những tiếng chửi lằm bằm của đám xích- lô bị giựt mối.
Anh xích- lô một tay đẩy xe một tay đưa va- li cho tôi:
– Thầy Hai ngồi ôm va- li còn cái túi trên vai thầy Hai đưa đây, tui để trên càng xe!
Đỡ lấy cái túi xách trên tay tôi, anh xíxh- lô bỗng la lên:
– Chết mẹ! Tụi lưu manh nó rạch cái túi của thầy Hai rồi! Thầy coi lại thử có mất thứ gì không!
Tiếng la của anh xích- lô làm tôi bàng hoàng. Tôi cầm lấy cái túi xách và điếng hồn khi thấy một đường rạch dài chạy suốt bên hông. Tôi lật đật cái túi xách xuống, mở ra xem. Cũng may là quần áo tiền bạc tôi bỏ trong va- li. Túi xách chỉ đựng toàn bánh trái, nên bọn lưu manh chẳng lấy được gì, chỉ tiếc là tiếc cái túi.
Nhét chùm bánh ít bị lòi ruột vào lại trong túi, tôi lặng lẽ leo lên xe, trong lòng vừa hậm hực vừa lo âu.
– Thầy Hai về đâu?
Bây giờ tôi mới nhớ là mình chưa nói địa chỉ của dì Ba, nơi tôi sẽ ở trong thời gian tới, cho anh xích- lô biết. Dì Ba là chị của mẹ tôi. Dì theo chồng vào Sài Gòn đã gần mười lăm năm nay. Hồi đó tôi còn nhỏ nên hình ảnh dì tôi chỉ nhớ loáng thoáng. Còn dượng Ba thì tôi chưa gặp lần nào, tôi chỉ biết dượng Ba qua thư từ và qua lời mẹ tôi kể.
Tôi nói địa chỉ nhưng dường như anh xích- lô không nghe ra. Anh ta lại hỏi:
– Thầy Hai về đâu?
Tôi lại trả lời. Anh ta vểnh tai nghe xong lại lắc đầu:
– Thầy nói giọng khó nghe quá! Thầy nói đường đó là đường gì?
Cảm thấy lúng túng và mắc cỡ khi phải lập lại lần nữa, tôi liền rút tờ giấy ghi địa chỉ đưa cho anh ta.
Xem xong, anh ta gật gù:
– À, té ra thầy về đường Bà Hạt. Bà Hạt mà khi nãy thầy nói tui nghe không ra!
Xe chạy lòng vòng. Tôi ngồi ôm cứng cái va- li trước ngực như sợ ai giựt mất.
– Hình như thầy mới tới đây lần đầu?
Anh xích- lô vừa đạp vừa lân la hỏi chuyện.
Tôi gật đầu.
– Phải lần đầu không thầy?
Anh xích- lô lại hỏi. Tôi sực nhớ ra anh ta không thấy cái gật đầu của tôi, liền đáp:
– Dạ.
– Tôi đoán là thầy vô đây đi học?
– Dạ.
– Dòm cái tướng thư sinh của thầy là tui biết liền! – Rồi anh ta khịt mũi, nói tiếp – Sống ở cái đất này thầy phải coi chừng, bọn cướp giựt trộm cắp đầy rẫy, nhất là ở các bến xe, chợ búa. Mà tướng thầy thì khù khờ…
Lời nhận xét của anh xích- lô khiến tôi đỏ mặt. May mà anh ta không nhìn thấy.
– Tụi nó rạch lúc nào lẹ quá! – Tôi nói.
– Dễ ợt chớ có khó gì đâu, thầy! Tại thầy không biết đó thôi! Ôm trước ngực tụi nó còn rạch được nũa là đeo trên vai. Tụi nó chỉ cần đeo chiếc nhẫn có cạnh nhọn rồi giả bộ chen lấn, áp sát cái mặt nhẫn vô túi xách của thầy. Thầy quay qua quay lại là “rẹt” một cái liền.
Nghe anh ta nói, tôi nghe lạnh sống lưng. Bọn chúng chơi kiểu đó trời chưa chắc đã biết, huống hồ chi một kẻ “khù khờ” như tôi.
Mải nghĩ đến những chuyện u ám đó, tôi chẳng còn đầu óc đâu ngắm cảnh phố phường. Dù vậy, những đường phố thênh thang rộn rịp xe cộ, những toà buynđding cao ngất hai bên đường cũng gây cho tôi một ấn tượng choáng ngợp. Thật khác xa các tỉnh lỵ, các thị trấn khiêm nhường ở quê tôi. Nhất là khi đi ngang Ngã Bảy, tôi cảm thấy hoa cả mắt trước một giao lộ chằng chịt với cơ man người xe qua lại.
Lát sau, xe rẽ vào một con đường nhỏ và dừng lại trước một con hẻm.
– Tới rồi, thầy Hai.
Tôi bước xuống đất, miệng hỏi:
– Anh lấy bao nhiêu tiền?
Anh xích- lô đỡ cái túi trên càng xe đưa cho tôi:
– Dạ, thầy Hai cho năm trăm.
Tôi chẳng biết mắc rẻ ra sao, cứ móc tiền đưa đại. Đối với tôi lúc này, về được tới nhà là yên tâm lắm rồi, khỏi phải sợ gặp rắc rối dọc đường.

Chap 3:

Gọi là hẻm nhưng con đường dẫn vô nhà dì BA là một khoảnh sân tráng xi- măng của một căn nhà nằm thụt sâu bên trong. Khoảnh sân chạy dọc theo hông của một dãy nhà bề thế và đủ rộng cho xe ô- tô đi lọt.
Đi hết khoảnh sân dài độ ba chục mét, đụng phải căn nhà phía trong, quẹo phải là tới nhà dì tôi.

Khác với những tòa nhà lộng lẫy tôi vừa thấy ngoài phố, căn nhà của dì tôi trông có vẻ đơn sơ, mái tôn, vách gỗ, các phòng trong nhà ngăn bằng ván ép. Sau này tôi mới biết dì không có nhà riêng. Căn nhà hiện ở là căn nhà dì thuê của chủ tòa biệt thự bề thế đằng trước.

Sau khi đã nhìn kỹ biển số nhà gắn trước cửa, biết chắc là mình không lầm, tôi rụt rè bước chân qua ngường cửa.

Ngồi trên đi- văng đằng trước là một người đàn bà đứng tuổi, mặt mày có vẻ phúc hậu. Tôi ngợ không biết đó có phải là dì Ba không.

Thấy điệu bộ lớ ngớ của tôi, người đàn bà hỏi:

– Cháu tìm ai?

Tôi đặt túi xách và va- li xuống đất, lễ phép thưa:

– Dạ thưa dì Ba…

Người đàn bà mỉm cười ngắt lời tôi:

– À, tìm dì Ba hả? Bác không phải là dì Ba! Bác là bác Tám nhà hàng xóm!

Nói xong, bác Tám quay vô trong, kêu lớn:

– Dì Ba ơi! Có khách tìm dì nè!

Lát sau, dì Ba đi ra. Mặc dù đã lâu không gặp dì nhưng không hiểu vì sao vừa trông thấy dì tôi nhận ra ngay những nét quen thuộc. Dì có khuôn mặt tròn, đầy đặn, nụ cười cởi mở. So với hình ảnh trước đây của dì trong đầu tôi thì dì mập ra nhiều.

Tôi chưa kịp chào, dì đã lên tiếng:

– Cháu là Chương phải không?

Tôi trố mắt:

– Dạ! Ủa sao dì biết?

Dì cười:

– Ba cháu có đánh điện cho dì, nói là cháu sắp vào.

Rồi dì nắm lấy tay tôi:

– Cháu mau lớn quá. Mới đó mà gần mười lăm năm rồi! Nếu ba cháu không báo trước, chắc dì không nhận ra cháu đâu!

Bác Tám hỏi xen vào:

– Cháu dì ở ngoài quê mới vào đó hả?

– Dạ nó vào thi đại học đó, chị Tám! – Dì tôi đáp với vẻ hãnh diện.

Bác Tám chép miệng:

– Giỏi quá hén! Nhỏ xíu mà đã học tới đại học rồi!

Tôi chẳng hiểu bác Tám khen thiệt hay khen chơi. Thanh niên cỡ tuổi tôi, đứa nào mà chẳng thi đại học. Hay là tại vì bác Tám thấy tôi nhỏ con, tưởng tôi mới mười lăm tuổi. Sau này tôi mới biết bác có một đứa con gái trạc tuổi tôi nhưng mới học tới lớp mười một.

Sau khi hỏi thăm tin tức bà con ngoài quê, dì Ba giục tôi đi nghỉ:

– Cháu đi đường xa chắc mệt. Ra đằng sau tắm một cái cho mát rồi lên gác nằm nghỉ.

Tôi sực nhớ tới dượng Ba:

– Dượng đâu rồi dì?

– À, dượng đi làm ở mãi tận Gò Vấp chiều tối mới về.

Phòng tắm chỉ có cái lu sành hứng nước từ đường ống. Sau hai ngày đi đường mệt mỏi, người ngứa ngáy và đầy bụi, tôi múc nước dội ào ào một cách sảng khoái.

Khi tôi tắm xong, dì Ba dẫn tôi lên gác.

Đó là một căn gác gỗ, rộng chừng sáu, bảy mét vuông, sàn lát ván mỏng, bước mạnh một cái là nó kêu “rắc, rắc,” nghe phát ớn. Nằm ngủ, trở mình cũng phải trở mình nhè nhẹ nếu không muốn gây ra tiếng động.

– Nghe tin cháu sắp vào, dì đã dọn sẵn căn gác này cho cháu. Tối cháu ngủ trên này. Buổi trưa hơi nóng, cháu có thể xuống dưới nhà nằm! – Dì tôi hướng dẫ n cặn kẽ – Học bài cháu ra đằng trước ngồi học. Bữa nay dì hơi nhức đầu nên ở nhà chứ thường ngày dì dượng đều đi làm hết, nhà không có ai, tha hồ mà học. Còn muốn học trên này thì ngồi ở đây…

Cái bàn học dì tôi vừa chỉ trông thật tức cười. Đó là một miếng gỗ rộng bản nằm song song và cao hơn mặt sàn chừng bốn tấc, có lẽ trước đây dùng làm chỗ chứa đồ đạc. Trên mặt “bàn”, dì tôi đã gắn sẵn một bóng đèn nê- ông ba tấc, ý chừng để tôi học bài ban đêm.

Cũng có đôi điều cần phải nói thêm về cái bàn học này. Nó song song với mặt sàn nhưng không nằm ngay trên mặt sàn mà nằm lệch ra ngoài, phía dưới là lối đi thông nhà trước với nhà sau. Do đó khi ngồi học, nếu xếp chân lại thì không sao, còn như muốn thoải mái, đưa chân ra khỏi mép sàn, thõng xuống dưới nhà, thể nào cũng đạp trúng đầu những người đi qua đi lại. Kẹt một nỗi, tính tôi lại hay quên, lúc học bài, ngồi lâu mỏi cẳng, tôi lại thọt chân xuống dưới. Từ khi vào đại học đến lúc tốt nghiệp ra trường, thú thật là tôi đạp trúng dì dượng tôi không biết mấy trăm lần. Dì tôi la hoài mà tôi không tài nào sửa được.

Lúc dì tôi dặn dò, hướng dẫn đâu đó xong xuôi, tôi bắt đầu lôi đồ đạc ra sắp xếp. Quần áo, sách vở, tôi để một bên. Phần quà cáp ngoài quê gởi vô, tôi trao cho dì.

Thấy tôi lôi bánh trái trong túi xách ra, dì tôi trợn mắt:

– Ủa, cái gì vậy cháu?

– Dạ, các thứ này là của cậu Năm với dì Bảy…

– Không phải! Dì hỏi là hỏi cái túi của cháu kìa! Sao nó tét một đường vậy?

Từ khi vào nhà đến giờ, tôi đã cố ý che cái túi rách. Tự nhiên lúc này tôi lại quên khuấy đi mất, chìa cái bề rách về phía dì. Thế là tôi đành phải kể lại chuyện xui xẻo ở bến xe.

Dì tôi không kêu tôi “khù khờ” mà bảo:

– Cháu mới vô đây còn lạ nước lạ cái, lần sau đi đâu phải cẩn thận.

Nói xong, dì tôi cầm cái túi xuống nhà:

– Để lát tối dì nhờ dượng Ba may lại cho.

Dượng tôi làm ở trung tâm tiếp huyết bên Gò Vấp. Cơ quan cách nhà khoảng mười lăm cây số, sáng sớm năm giờ dượng đã dậy đạp xe đi làm. Nhà có honđda nhưng dượng không đi, dượng bảo đi xe đạp cho khỏe người, coi như tập thể dục buổi sáng.

Dượng tôi cũng to con như dì tôi, tính tình cũng cởi mở, thậm chí có phần dễ dãi.

Buổi chiều đi làm về, gặp tôi, dượng hỏi liền:

– Mày là thằng Chương đây hả?

Tôi gật đầu. Dượng vỗ vai tôi, bàn tay dượng nặng chịch:

– Tao nghe dì mày nhắc mày hoài! Sao, mày vô đây một mình hay đi với ai?

Khi nghe tôi nói đi một mình, dượng tôi khen:

– Đi Sài Gòn lần đầu mà dám đi một mình là chịu chơi lắm!

Tôi chẳng thấy tôi chịu chơi chút nào. Nhưng tôi không dám kể chuyện bị rạch túi cho dượng nghe.

Ăn cơm tối xong, dượng tôi lấy honđda chở tôi đi chơi, đi một vòng cho “biết Sài Gòn”, như lời dượng tôi nói.

Sài Gòn ban đêm thật là lộng lẫy. Xe cộ nườm nượp, đèn điện sáng choang. Y như những thành phố nước ngoài tôi xem trong sách báo, nhất là khu Lê Lợi và chợ Bến Thành lấp lánh muôn màu. Ngồi trên xe, tôi cứ mải mê đọc hàng chữ chạy vùn vụt trên bảng tin điện trên tòa nhà đối diện với công viên Quách Thị Trang. Khi xe qua khỏi, tôi cứ tiếc hùi hụi.

Chạy hết phố hết phường, dượng tôi chở tôi về. Trước khi về nhà, hai dượng cháu ghé Ngã Sáu ăn bánh cuốn và ăn kem. Lần đầu tiên trong đời tôi biết thế nào là bánh cuốn và kem ly. Kể từ giây phút đó, hai món “độc địa” này được tôi liệt vào danh sách những món ngon nhất thế giới.

Chap 4:

Dì dượng tôi không có con. Sống với dì dượng là bé Lan Anh. Nó là cháu ruột dượng tôi, kêu dượng tôi bằng cậu. Nhưng dì dượng tôi nuôi nó từ nhỏ nên coi nó như con. Nó cũng kêu dượng tôi bằng ba và dì tôi bằng mẹ.
Lan Anh năm nay mười ba tuổi, học lớp bảy. Nó cũng gốc dân quê như tôi nhưng sống ở thành phố từ nhỏ nên rất bạo dạn và lém lỉnh.
Hôm tôi vào, Lan Anh đi chơi mất biệt bên nhà hàng xóm. Gần tối, nó mới ló mặt về nhà. Dì tôi giới thiệu tôi với nó:
– Đây là anh Chương con dì Sáu ở ngoài mình mới vô. Con lại chào anh đi!
Tôi đã chuẩn bị sẵn một nụ cười thân thiện để đáp lại chào của nó. Ai dè nó hỏi ngược lại dì tôi:
– Con của dì Sáu thì con kêu bằng em chứ sao kêu bằng anh, mẹ?
Nó làm tôi chưng hửng. Dì tôi la nó:
– Con đừng có lộn xộn! Ảnh lớn tuổi hơn, con phải kêu bằng anh!
Nó phụng phịu quay lại gật đầu chào tôi. Nó nói lí nhí gì đó trong miệng, tôi nghe không rõ. Không biết nó đang chào tôi hay đang rủa tôi. Tuy nhiên tôi vẫn mỉm cười với nó, ra vẻ một ông anh rộng lượng.
Buổi tối, sau khi đi chơi với dượng tôi về, tôi đang ngồi trên gác lúi húi xếp lại mấy cuốn sách thì Lan Anh leo lên ngồi cạnh tôi.
Tôi giả bộ không biết, cứ lặng lẽ xếp sách. Nó kêu:
– Anh Chương!
– Gì đó em?
– Anh kêu Lan Anh bằng em hả?
Thấy nó lại bắt bẻ, tôi mím môi ngồi im.
Nó ngẫm nghĩ một hồi rồi bỗng dưng níu tay tôi:
– Nếu anh vẫn kêu em bằng em thì em…kêu anh bằng anh hén?
Tự dưng nó đổi giọng ngọt ngào quá xá. Tôi khoái chí, cười khì.
Lan Anh cầm mấy cuốn sách lên:
– Em giúp anh xếp sách nghen! – Ừ, nhưng em nhớ xếp sách học một bên, sách truyện một bên, đừng để lẫn lộn!
Tôi vừa làm vừa trò chuyện với Lan Anh. Nó hỏi tôi những chuyện ngoài quê, còn tôi hỏi nó chuyện học tập. Nói qua nói lại một hồi, bỗng dưng tôi phát hiện ra tôi đang nói chuyện một mình, quay lại thấy Lan Anh ngủ mất. Nó gục đầu lên cánh tay, mặt quay về phía tôi, thở khò khò.
Sáng hôm sau, Lan Anh lại “truy” tôi:
– Anh ở ngoài quê vô, sao không có quà gì cho em hết vậy?
– Có bao nhiêu bánh trái anh gởi hết cho dì rồi. Hôm qua em cũng có ăn kia mà!
Nó không chịu:
– Bánh trái cho mẹ là khác, cho em là khác!
Tôi ấp úng:
– Nhưng anh đâu có biết em ở đây!
Thấy nó xịu mặt, tôi đâm hoảng, vội hỏi:
– Chứ anh biết làm sao bây giờ?
Nó “giải đáp” ngay:
– Chạy ra đường mua cho em mười cây kẹo dừa!
Tôi liền làm theo lời nó. Nó dặn mười cây, tôi mua tới mười lăm cây. Nó vừa nhai kẹo, vừa khen tôi:
– Anh tốt ghê!
Nói xong, nó thưởng cho tôi một cây kẹo, còn nó ăn hết mười bốn cây.
Lan Anh có cái tật ưa “chất vấn”, thấy chuyện gì nó cũng thắc mắc. Tôi sống yên với nó được hai ngày, tới ngày thứ ba nó lại “gây chuyện”:
– Tại sao anh giấu em?
Tôi ngơ ngác:
– Anh có giấu cái gì đâu?
Nó khịt mũi:
– Chuyện cái túi xách đó! Sao bị rạch túi mà anh không kể cho em nghe?
Hóa ra khi dượng tôi khâu lại cái túi cho tôi, nó nhìn thấy. Tôi gãi đầu:
– Chuyện đó hay ho gì mà kể.
– Hay chứ sao không! Làm sao mà anh bị rạch túi, anh kể nghe đi!
– Anh chẳng làm sao cả. Anh cũng không biết ai rạch và rạch lúc nào. Anh xuống khỏi xe, chưa kịp ngồi lên xích lô là đã thấy cái túi bị rạch rồi!
Lan Anh có vẻ thất vọng trước câu chuyện dở ẹc của tôi. Nó bình luận:
– Thật em chưa thấy ai khù khờ như anh!
Nhận xét của nó làm tôi giật mình. Hôm trước, tay xích- lô cũng bảo tôi khù khờ. Nhưng tay xích- lô thì không đáng để ý, biết đời nào tôi mớ ngồi trên chiếc xe của anh ta lần nữa. Đằng này, một con nhỏ ở sát nách mình chê mình khù khờ thì quả là đáng tủi. Tôi thở dài:
– Ừ, anh là một thằng khờ.
Thấy tôi rầu rĩ, Lan Anh động lòng thương, nó an ủi:
– Nói vậy chớ anh không khờ đâu! Khờ mà dám đi một mình ngoài quê vô đây!
Tôi chép miệng:
– Cái đó thì nói làm gì! Mẹ anh bỏ anh lên xe, xe chạy tới bến bỏ anh xuống, cũng giống như người ta chở hàng hóa vậy thôi!
– Xì! Nói vậy mà cũng nói! Thôi, tối nay hai anh em mình đi coi hát đi!
Lan Anh rủ, chắc nó muốn giúp tôi khuây khỏa.
– Ai hát mà coi? – Tôi hỏi.
– Đâu có ai hát! Đi coi hát tức là đi coi phim đó!
Tôi trề môi:
– Coi phim nói coi phim, bày đặt nói coi hát!
Lan Anh mỉm cười:
– Thì em nói vậy quen rồi! Sao, anh đi không?
Tôi phân vân:
– Dì dượng có cho đi không?
Lan Anh gật đầu:
– Em nói đi với anh là ba cho đi liền.
Tối đó, Lan Anh dẫn tôi đi coi phim ở rạp Long Vân. Rạp gần nhà nên hai anh em đi bộ. Tới nơi, ngó lên bảng quảng cáo mới hay rạp đang chiếu phim “Thằng khờ ra tỉnh”!
Tôi liếc Lan Anh, nghi nó chơi xỏ tôi. Nhưng nó cũng ngơ ngơ ngác ngác, chứng tỏ nó cũng bị bất ngờ.
Lan Anh khều tôi:
– Giờ sao anh?
– Sao là sao?
– Thôi, hai anh em mình đi ăn kem đi. Phim này dở ẹc à…
Tôi nổi máu tự ái:
– Dở cũng coi! Chẳng lẽ mình sợ “nó”?
Thế là hai anh em bước vào rạp.
Phim chiếu cảnh một anh nhà quê ra tỉnh mua máy cày, có bao nhiêu tiền bị bọn lưu manh cuỗm sạch. Không một đồng bạc lận lưng, anh ta phải đi lang thang nhặt từng mẩu bánh mì…
Tôi ngồi coi, giật mình thon thót, tưởng người ta nói mình. Phim hài, Lan Anh cố làm mặt tỉnh nhưng không được. Nó cười khúc khích làm tôi muốn điên tiết. Nhưng tôi không trách nó được.
Ra khỏi rạp, tôi nhăn mặt:
– Anh giống hệt cái anh nhà quê kia!
– Không giống đâu! – Lan Anh phản đối.
Tôi nhún vai:
– Em đừng là bộ! Anh thấy giống y chang!
– Em đã bảo không giống mà! Em nói thật đó!
Tôi thấy mừng mừng:
– Em nói thật hả?
– Ừ.
– Vậy em nói thật nữa đi! Tại sao không giống?
– Nói thật hả?
– Ừ, nói thật!
– Tại vì anh khờ hơn anh nhà quê kia nhiều!
Nói xong, Lan Anh cười hích hích. Còn tôi, tôi giận tím người, không phải giận nó mà giận mình. Nó đã nói “không giống” thế là được rồi, còn ép nó “nói thật” nữa chi không biết.

Chap 5:

Một buổi trưa, tôi đang nằm ngủ mơ mơ màng màng trên chiếc đi- văng trước nhà bỗng nghe có tiếng nói chuyện thì thầm sau lưng. Chả là tôi nằm quay mặt vào vách nên khi tôi giật mình mở mắt ra cũng chẳng ai hay biết.
Đó là hai đứa con gái đang “phân tích” tôi.
Một đứa hỏi:
– Ai nằm vậy cà?
Đứa kia trả lời:
– Anh Chương đó!
– Anh Chương nào?
– Anh Chương cháu dì Ba!
– Thằng chả ở đâu mọc ra vậy?
Con nhỏ tự nhiên đổi “tông” khiến tôi suýt chút nữa giật nảy người.
Đứa kia có vẻ như đã quen với kiểu ăn nói của đứa này nên nó chẳng bắt bẻ gì, chỉ nhẹ nhàng giải thích:
– Ảnh ở ngoài quê vô thi đại học.
– Thi đại học?
– Ừ, ảnh bằng tuổi với chị mà đã thi đại học rồi!
– Sao mày biết thằng chả bằng tuổi tao?
– Mẹ nói.
Nghe tới đây, tôi đã lờ mờ đoán ra hai nhân vật này là hai chị em, con của bác Tám nhà bên cạnh.
Đứa chị có vẻ không ưa cái chuyện tôi bằng tuổi nó mà dám thi đại học. Tôi nghe nó “xì” một tiếng:
– Thằng chả thi chắc gì đã đậu!
Tôi nằm nge, giận muốn ứa gan. Mới chân ướt chân ráo vô Sài Gòn, chưa kịp thi cử gì, đã bị con nhỏ “độc miệng” trù ẻo, không nổi điên sao được! Nhưng tôi cố ép mình nằm im để…nghiên cứu tình hình.
Trước thái độ khiêu khích của bà chị, đứa em vẫn nhỏ nhẹ:
– Em không biết! Nhưng em mong cho ảnh thi đậu! Đứa chị “đốp” lại ngay:
– Thằng chả dính gì tới mày mà mày mong! Bộ mày “mết” thằng chả rồi hả?
– Chị đừng có nói bậy! – Đứa em phản ứng – Ảnh ở ngoài quê lặn lội vô đây, nếu thi rớt khăn gói trở về, thấy tội tội làm sao!
– Học dở thì thi rớt, có gì đâu mà tội! – Đứa chị vẫn nói giọng ngang phè.
Đứa em chưa kịp đáp thì có tiếng kêu:
– Trâm ơi Trâm!
Đứa em nói:
– Mẹ kêu chị kì!
Đứa chị – bây giờ tức là Trâm – chạy về nhà. Còn đứa em thì đi ra sau nhà chơi với Lan Anh.
Đợi hai “người đẹp” đi khuất, tôi nhỏm mình ngồi dậy, mồ hôi mồ kê nhễ nhại. Hú vía, may mà bác Tám kêu về kịp thời chứ con nhỏ Trâm kia còn ngồi lại, không biết nó “trù” tôi tới những chuyện gì.
Ngồi nghĩ tới nghĩ lui một hồi, tôi quơ cái gối, leo lên gác. Nán lại ở đây, rủi lát nữa nhỏ Trâm qua cà khịa lôi thôi, tôi nóng tiết “choảng” lại, mất mặt cả đám.
Cầu thang lên gác nằm kế cái cửa thông ra nhà sau. Vừa leo lên bậc thang, tôi vừa liếc qua cánh cửa. Ngồi cạnh Lan Anh là một con nhỏ tóc dài dễ thương hết biết. Hai đứa đang lui cui lặt rau.
Thình lình con nhỏ quay lại và bắt gặp tôi đang nhìn trộm nó. Trong khi tôi đỏ mặt tía tai, chưa biết trốn đi đâu thì nó gật đầu chào tôi và nhoẻn miệng cười. Chưa bao giờ tôi thấy một nụ cười xinh như vậy. Tim tôi đập thon- thót trong lồng ngực, hai tay bấu chặt cầu thang, bởi trong những trường hợp đột xuất như thế này người ta té gãy cổ như chơi. Khi tôi kịp định thần trở lại, tính cười đáp lễ nó thì nó đã day mặt đi chỗ khác tự đời nà. Chẳng lẽ tụt xuống chạy lại khều nó, tôi đành mím môi leo thẳng lên gác, trong bụng giận cái thói “mềm yếu” của mình kinh khủng.
Tôi giở sách ra tính đọc nhưng không tài nào đọc được. Cái nụ cười xinh xắn, thân thiện và hồn nhiên kia cứa nhảy nhót trong đầu tôi.
Lát sau, đợi con nhỏ dễ thương đó về rồi, tôi lò mò ra nhà sau, “phỏng vấn” Lan Anh:
– Nè em, cô bé khi nãy là em chị Trâm phải không?
Lan Anh thè lưỡi:
– Hay qúa ta! Sao anh biết chị Trâm tài qúa vậỷ
Nghe nó khen “tài”, tôi khoái chí phỗng mũi ba hoa:
– Sao không biết! Trâm là con đầu của bác Tám chứ gì?
Lan Anh cười khi dể:
– Biết vậy mà cũng biết! Chị Trâm là thứ bạ Trên chị Trâm còn có chị Kim nữa!
Tôi trợn mắt:
– Nhà gì mà toàn con gái không vậy!
– Còn thằng Tạo nữa chi! Thằng Tạo là em út.
Tôi nuốt nước bọt:
– Thế chị kế thằng Tạo tên gì?
Tôi tính đi đường vòng ai dè Lan Anh còn tinh quái hơn tôị Nó nhăn mũi:
– Anh muốn hỏi tên chị Quỳnh thì hỏi đại cho rồi, còn bày đặt hỏi chị kế thằng Tạo!
Bị Lan Anh nói trúng ngay tim đen, tôi đành cười khì. Té ra con nhỏ đó tên Quỳnh. Người dễ thương mà tên cũng dễ thương ác!
Qua Lan Anh, tôi biết gia đình bác Tám có ba người con gái và một đứa con trai. Quỳnh, mười lăm tuổi, học lớp chín, hết hè này lên lớp mười. Chị Kim lớn hơn tôi ba tuổi, nghỉ học mấy năm any, hiện đang bán ở tiệm thuốc tây, chung chỗ với dì tôi. Thằng Tạo, tám tuổi, học lớp ba. Còn nhỏ Trâm, cùng tuổi tôi, học lớp mười một. Trâm học trễ vì bị nghỉ học mấy năm trong thời gian bác Tám trai đi tù. Sau này, hỏi dượng Ba, tôi mới biết bác Tám trai hoạt động cách mạng bị bắt, ở tù mấy năm rồi được thả ra, bây giờ làm nghề mộc kiếm sống qua ngày.
Nói chung, gia đình bác Tám sống tương đối khó khăn. Bác Tám gái đi buôn hột vịt, mỗi tuần về miền Tây một lần. Hột vịt nửa bỏ sỉ, nửa bán lẻ. Phần bán lẻ do Trâm và Quỳnh phụ trách. Hàng ngày, hai chị em đi học một buổi, một buổi đẩy xe ra chợ ngồi bán hột vịt.
Nhớ lại chuyện khi nãy, tôi hỏi Lan Anh:
– Bộ chị Trâm ghét anh lắm hả?
– Ai nói anh vậy?
– Khi nãy anh ngủ anh nghe hai chị em nói chuyện.
– Ngủ mà nghe?
– Anh ngủ mơ mơ màng màng.
Tôi không dám nói là tôi thức, nằm dỏng tai nghe trộm. Lan Anh hỏi:
– Chị Trâm nói sao?
Tôi “méc”:
– Chỉ tù anh thi rớt đại học.
– Trù saỏ – Nó lại hỏi.
– Chỉ nói chắc gì anh thi đậu!
– Nói vậy mà trù!
Thấy không ăn thu, tôi “méc” thêm:
– Chỉ còn kêu anh là “thằng chả”.
Lan Anh cười:
– Tính chỉ vậy đó! Ở nhà kêu chỉ là con trai! Ngó vậy chứ chỉ tốt lắm!
Tôi hừ mũi?
– “Thằng chả” mà tốt!
Lan Anh lườm tôi:
– Em méc chị Trâm cho coi!
Tôi nghinh mặt:
– Cho méc!
Tự nhiên nó reo lên:
– A, em biết rồi!
Tôi ngơ ngác:
– Biết cái gì?
– Biết anh chẳng khờ chút nào! Anh chỉ giả bộ khờ thôi!
Tôi cười hì hì. Thật ra tôi đâu có giả bộ khờ. Tôi khờ thật đấy chứ. Nhưng từ khi gặp Quỳnh, hình như đầu óc tôi sáng sủa ra được một chút.

Chap 6:

Tối hôm sau, tôi định qua nhà bác Tám chơi. Tôi vào ở nhà dì Ba đã gần một tuần mà chưa qua thăm hàng xóm, kể cũng tệ. Nhất là quan hệ giữa gia đình bác Tám với dì dượng tôi rất thân thiết. Hai bên chạy qua chạy lại như trong một nhà.

Nhà bác Tám kế vách nhà dì tôi. Nhưng cửa nhà thì thụt vào sâu hơn, muốn vào nhà phải qua một khoảnh sân hẹp có cửa lưới. Căn gác tôi ở nằm kế ngay trên khoảnh sân đó. Trước khi căn gác thuộc về tôi, tấm vách tiếp giáp với khoảnh sân đã bị thủng một lỗ to tướng, đủ để thò lọt hai đầu. Tôi phải nói rõ điều đó để đừng bạn nào nghĩ rằng tôi cố tình tạo ra lỗ thủng “kỳ diệu” đó. Dì tôi có dùng một tấm vải bạc để che chỗ đó nhưng chẳng ăn thua gì. Mỗi khi trời mưa gió, tấm vải bay phấp phới để lộ cả khoảng trời. Tất nhiên tôi không dại gì mà không khai thác…tiềm năng của cái lỗ thủng đó. Trong thời gian sau này, thỉnh thoảng tôi vẫn thò đầu (nói chính xác là một phần tư cái đầu) qua cứ điểm chiến lược đó để…quan sát đối phương.

Thật ra, sỡ dĩ tôi chưa qua thăm gia đình bác Tám một phần cũng vì tôi bận rộn. Hai ngày nay, dượng tôi phải nghỉ làm để chở tôi đến trường đại học xem thông báo tuyển sinh và chuẩn bị hồ sơ. Thời gian còn lại, tôi vùi đầu lo ôn thi. Tôi cứ nghĩ, chuyện gì chứ chuyện qua chơi nhà bác Tám để chậm vài ngày cũng chẳng muộn. Nhưng kể từ trưa nay, tôi mới vỡ lẽ ra rằng đến nay mà chưa qua nhà bác Tám thì đã quá muộn rồi.

Tôi định tối hôm sau qua chơi thì trưa hôm sau lại xảy ra một biến cố khiến cuộc viếng thăm dự định đó bị dời bến vô thời hạn.

Số là ăn cơm trưa xong, tôi rút lên gác, thay vì nằm ngủ ở đi- văng như thường lệ.

Lan Anh kêu tôi:
– Sao anh không nằm ngủ dưới này cho mát?
Tôi ấp úng:
– À…anh phải sắp xếp đồ đạc lại một chút.
– Xì! Đồ đạc chẳng có bao nhiêu mà sắp xếp hoài!
May mà Lan Anh chỉ nói vậy thôi chứ không hỏi tiếp. Nó hỏi tới chắc tôi hết đường trả lời.

Thật ra tôi cũng muốn nghỉ trưa dưới nhà để mong gặp Quỳnh. Nhưng rủi Quỳnh không qua mà Trâm qua một mình chắc tôi chết. Tôi làm bộ làm tịch với Lan Anh vậy thôi chứ nói chuyện tay đôi với Trâm, chắc Trâm sẽ ăn thịt tôi mất.

Tôi ngồi trên gác, vừa thủ thế vừa lắng tai nghe động tĩnh. Giờ này nghĩ trưa, biết đâu Quỳnh chẳng qua chơi với Lan Anh. Nếu Quỳnh qua, tôi sẽ nhanh chóng tụt xuống khỏi gác chạy tới gật đầu chào Quỳnh hai cái, bù thêm cái thiếu sót hôm qua.

Nhưng tôi đợi dài cả cổ mà chẳng thấy gì. Hay là Quỳnh giận tôi hôm qua đã không đáp lại nụ cười làm quen của Quỳnh. Nếu quả vậy, thật đáng đời cho tôi, một tên vừa khờ vừa bất lịch sự hết chỗ nói.

Nghĩ ngợi lan man một hồi, tôi buồn tình đem đàn ra gảy. Cây đàn mới tinh, mới mua mấy ngày, mấy hôm nay bận học tôi đâu có thèm rớ. Bữa nay tôi nhờ nó nói lên tiếng lòng của tôi.

Tôi ư ử hát bài “Cô Láng Giềng” của Hoàng Quí. Tôi phục ông Hoàng Quí này quá xá. Làm sao ông ta biết được ngày hôm nay tôi ở kế nhà Quỳnh mà lại viết bản nhạc độc địa vậy không biết.

Để ngồi cho thoải mái hầu đem hết năng lực phục vụ nghệ thuật, tôi thõng hai chân xuống gác, đu đưa trong không khí. Giờ này dì dượng tôi đã đi làm, Lan Anh còn nhỏ, chưa đủ chiều cao, tôi khỏi phải sợ đạp trúng đầu ai.

Tôi đang lim dim mắt, rống hết cỡ:
– Cô láng giềng ơi, không biết còn nhớ đến tôi….

Thì bỗng có ai đánh “bốp” một cái vào chân tôi khiến tôi giật nẩy người.

Tôi chưa kịp định thần xem thử có phải Quỳnh hay không thì một tiếng nói dõng dạc đã vang lên:
_Này, anh kia!

Tôi run bắn người, tưởng cảnh sát đi bắt quân dịch. Dòm lại, hóa ra Trâm.

Thấy nó đứng dưới đất chống nạnh dòm lên, tôi ơn ớn:
– Dạ, có gì không…chị?
– Bộ anh điên hả?

Nó hỏi xách mé khiến tôi ngớ người ra, không biết đường nào trả lời.
Thấy tôi lúng túng, nó làm tới:
_Tại sao giữa trưa anh hò hét om sòm không cho ai ngủ hết vậy?

Tôi hát mà nó dám kêu tôi hò hét, đúng là đồ…con trai! Nghĩ thì nghĩ vậy nhưng tôi đành phải buông cây đàn xuống, miệng ấp úng:
– Tôi…xin lỗi…
Thấy tôi có vẻ…dễ dạy, Trâm cười cười bỏ đi.
Ra tới cửa, nó còn đứng lại hỏi:
– Nhà tôi có tới ba chị em gái, anh hát cô láng giềng là anh hát cho cô nào vậy?
– Đâu có! Tôi hát chơi vậy thôi!
Tôi trả lời mà mặt đỏ rần tới mang tai. May mà tôi ngồi trên gác nên Trâm không nhìn thấy. Thật là xui tận mạng, tôi đã trốn lên gác rồi mà vẫn bị “sao quả tạ” chiếu!

Tôi chưa kịp hoàn hồn đã nghe tiếng Lan Anh cười hí hí dưới nhà. Tôi biết nó cười chọc quê tôi, nhưng đang ở thế hạ phong, tôi không dám gây sự với nó.

Nhưng, đúng như ông bà nói, hết cơn bĩ cực đến hồi thới lai! Tôi đang ngồi ủ rủ, đầu gục trên gối, thì bỗng nghe một tiếng gọi dịu dàng bên tai:
– Anh Chương!
Vừa quay mặt lại, tim tôi bỗng nhói lên một cái: Quỳnh.
Đúng là Quỳnh! Cô bé dễ thương đang đứng ở lưng chừng cầu thang, thò đầu lên gác và nhìn tôi bằng đôi mắt sâu thẳm, nửa bối rối nửa ái ngại.
Dường như sự mừng rỡ của tôi toát ra một cách lộ liễu trong ánh mắt nên bất giác Quỳnh cúi mặt xuống.
_Có chuyện gì vậy, Quỳnh? – Tôi hỏi.
– Khi nãy chị Trâm nói gì anh vậy? – Giọng Quỳnh buồn buồn.
Tôi chối phắt:
– Chị Trâm có nói gì đâu!
Nhưng Quỳnh thừa biết tôi nói dối. Cô bé không hỏi nữa mà chỉ nói:
– Anh đừng giận chị Trâm nghen! Tính chỉ bộp bộp như vậy nhưng chẳng có ác ý gì đâu!
Tự nhiên tôi thấy thương Quỳnh quá. Tôi quả quyết:
– Anh không giận chị Trâm đâu, Quỳnh đừng lo! Trước nay anh chưa biết giận ai bao giờ!
Nói xong, tôi toát mồ hôi hột. Câu đầu thì có thể đúng nhưng câu sau rõ ràng là tôi nói dóc. Trước nay, tôi giận hàng tỉ người.
Nhưng Quỳnh không để ý tôi tới điều đó. Cô bé nhìn tôi bằng ánh mắt tin cậy:
– Anh nói thật chứ?
Tôi gật đầu đại:
– Thật mà!
Sau khi được tôi bảo đảm, trước khi tụt xuống gác, Quỳnh còn cười với tôi một cái, dễ thương không thua gì hôm qua. Nhưng lần này rút kinh nghiệm, trước khi Quỳnh kịp cười thì tôi đã cười trước, sợ khi Quỳnh cười xong, tôi chưa kịp cười đáp lễ, Quỳnh đã tụt xuống đất mất tiêu.

Chính vì sự kiện tồi tệ đó mà mặc dù hứa với Quỳnh là không giận Trâm, tối đó tôi buộc phải hoãn lại chuyến viếng thăm gia đình bác Tám cho đến khi có…quyết định mới.

Chap 7:

Cái “quyết định mới” đó nó đến một cách rất tình cờ.

Một trong những công việc đầu tiên của tôi ở cái đất Sài Gòn này là mua một chiếc xe đạp.

Có xe đạp, tôi mới có thể đi lòng vòng trong thành phố cho quen đường quen sá, rồi đi thi, thi đỗ lại còn phải đi học. Đâu có thể bắt dượng tôi nghỉ làm để chở tôi đến trường hằng ngày được.

Tôi tính mua xe mới nhưng dượng tôi can. Dượng tôi bảo mua xe mới đắt tiền có khi lại gặp đồ dỏm, để mua từng bộ phận về ráp cho chắc ăn.

Hôm thì dượng tôi mua về cặp niềng, hôm thì cái pê- đan, hôm thì cái sườn xe, mỗi ngày một thứ.

Cái sườn xe cũ mèm, thoạt trông đã thấy ngứa con mắt, nhưng dượng tôi bảo ngó vậy chứ nó rất tốt, sườn mới ngoài tiệm không sánh được. Rồi dượng dúi vào tay tôi một lon sơn bảo tôi sơn lại sườn xe.

Tôi ngồi cạo cho hết lớp sơn cũ mất đúng một buổi. Xong tôi xoay trần ra, bắc đầu “tân trang” lại cái sườn.

Lần đầu tiên làm “thợ”, trông tôi thật hách! Tôi hành nhỏ Lan Anh mệt xỉu. Chốc chốc tôi lại kêu:
– Lan Anh ơi, châm giùm anh điếu thuốc!
– Lan Anh ơi, rót cho anh cốc nước!
Nó chạy vô chạy ra, mặt nhăn như khỉ:
– Bữa nay anh giống như một ông vua!
Tôi cười:
– Tay anh dính đầy sơn, em không thấy sao?
Nó vừa kê cốc nước vào miệng tôi vừa nhận xét:
– Em chưa thấy ai như anh! Làm có chút xíu mà quẹt sơn đầy người!
– Lát nữa anh lấy xăng chùi!
Cũng may tôi cởi trần chứ không tiêu đời cái áo.
Tôi sơn cái sườn xe cẩn thận như hồi nhỏ tập vẽ bản đồ. Tôi o bế từng nhát cọ, tính sơn thật đẹp, chiều khoe với dượng tôi.

Đâu đó xong xuôi, tôi phơi cái sườn xe trước sân cho mau khô. Chốc chốc tôi lại chạy ra ngắm “công trình” của mình. Dưới ánh nắng mặt trời, màu xanh dương lấp lánh trông thật đẹp. Tôi phục tôi quá xá. Giờ chỉ còn nhờ dượng tôi kẻ thêm vài đường chỉ trắng chạy dọc thân xe nữa thôi. Thế là có thể gắn bánh vào, tra dĩa, lắp ghi- đông và yên tâm “phóc” lên yên!

Lần thứ ba ra thăm “công trình”, tự nhiên tôi thấy có điều gì là lạ. Cái sườn xe bỗng dưng trông giống như con ngựa vằn!

Tôi bước lại gần và tái mặt khi nhìn thấy trên sườn xe hành chục vết xây xát, vết nào vết nấy to bằng ngón tay cái. Thế là tiêu ma cái “công trình” tim óc của tôi!

Tôi sửng sốt nhình quanh và chợt trông thấy thằng Tạo. Nó đang đi lững thững về nhà, trên tay vung vẩy một ngọn roi.

Tôi liền đuổi theo và bắt gặp nó chỗ cửa lưới. Thấy tôi, nó giấu biến cây roi ra sau lưng.

Tôi chìa tay ra, giọng hầm hầm:
– Đưa cây roi ra!
Nó khăng khăng không chịu đưa. Tôi vòng tay ra sau lưng nó giật lấy cây roi. Cái thằng thật lì lợm, nó dùng cả hai tay giữ lấy cây roi, môi mím chặt. Tôi nổi sùng nghiến răng giật mạnh một cái. Thằng Tạo đành phải buông tay. Nó khóc thét lên.

Mặc cho nó khóc, tôi đưa ngọn roi lên sát mắt và đúng như tôi nghĩ, ngọn roi loang lổ những vệt sơn. Đích thị là nó đã dùng cây roi khốn kiếp này quệt vào cái sườn xe.

Tôi ngẩng đầu lên tính hỏi tội nó nhưng tôi chưa kịp mở miệng đã thấy quai hàm cứng đơ. “Bà chằn” không biết xuất hiện từ lúc nào, đang đứng sau tấm cửa lưới lặng lẽ nhìn tôi bằng ánh mắt sắc như đao. Vẫn dáng đứng hai tay chống nạnh với vẻ du côn muôn thuở.

Có lẽ tiếng khóc của thằng Tạo đã làm kinh động giấc ngủ của “bà chằn” trong hang sâu! Tôi nghĩ thầm và bất giác lùi một bước theo…bản năng sinh tồn!

Trâm hất mặt về phía tôi:
– Anh ỷ lớn ăn hiếp con nít hả!
– Tôi có làm gì nó đâu!
– Không làm sao nó khóc?
– Tôi mượn cây roi…
– Anh mượn roi làm gì?
Tôi khịt mũi:
– Để coi thử…
Trâm quắc mắt, hệt hai cái đèn pha:
– Roi có gì mà coi?
Tôi chìa cây roi ra:
– Chị coi đây nè! Tôi sơn cái sườn xe cả buổi, thằng Tạo nó lấy cây roi này nó quệt hư hết trơn!
Trâm lạnh lùng:
– Hư thì sơn lại!
Cái kiểu ăn nói ngang như cua của nó khiến tôi tức nghẹn họng:
– Chị…chị…
Đột nhiên Trâm cười toe:
– Tôi bằng tuổi anh, anh đừng kêu tôi bằng chị!
Lần đầu tiên tôi thấy Trâm cười với tôi. Và cũng lần đầu tiên tôi nghe nó nói được một câu đàng hoàng. Cơn giận trong tôi đã giảm được phân nửa. Tôi hỏi lại:
– Vậy chứ kêu bằng gì?
– Kêu bằng tên thôi!
Trong khi tôi đực mặt ra thì Trâm hỏi tiếp:
– Bộ anh giận tôi lắm hả?
Tôi ấp úng:
– Đâu có.
Trâm lại cười:
– Tôi hỏi chơi vậy thôi chứ con Quỳnh nó nói là anh không biết giận ai bao giờ.
Tôi giật thót, miệng ậm ừ cho qua:
– Ừ…ừ…
Không để ý đến vẻ mặt sượng sùng của tôi, Trâm nói tiếp:
– Tại tôi thấy bộ tịch anh khù khờ, tôi chọc chơi cho vui. Bữa nay trở đi tôi không ăn hiếp anh nữa đâu, nếu có cũng in ít thôi!
Nó chọc tôi, tôi rầu thúi ruột, vậy mà nó bảo cho vui. Nhưng nghe nó hứa sẽ bớt ăn hiếp tôi, tôi hơi mừng mừng. Vì vậy khi nghe nó rủ:
– Tối nay anh qua nhà tôi chơi nghen!
Tôi gật đầu liền. Nếu Trâm không rủ, chẳng biết đến bao giờ tôi mới thực hiện được ý định của mình.
Nó còn “dụ khị” tôi:
– Tối nay mẹ tôi làm kẹo đậu phộng, ngon lắm!
Tôi sáng mắt lên:
– Tôi khoái kẹo đậu phộng lắm! Hồi nhỏ tôi ăn cắp, à không, tôi xin tiền mẹ tôi mua kẹo đậu phộng ăn hoài!
May mà tôi nói nhanh, giọng tôi lại hơi khó nghe, nên Trâm không nghe kịp, chứ nếu nó biết tôi hồi nhỏ hay ăn cắp tiền mẹ tôi, tôi chỉ có nước độn thổ. Nó chơi ác nó nói với Quỳnh nữa chắc tôi khăn gói về quê sớm.
Làm như Trâm đọc được ý nghĩ tôi hay sao, tự nhiên nó nhìn lên trời nói bâng quơ:
– Giờ này con Quỳnh theo mẹ tôi đi giỗ rồi, tối mới về.

Trong khi Trâm còn đang nghiên cứu khí tượng trên trời, chưa kịp nhìn xuống đất, tôi len lén chuồn về nhà. Đứng lại đó, nó nổi hứng nhắc lại chuyện “Cô láng giềng” bữa trước, chắc tôi xỉu!

Chap 8:

Lần đầu tiên qua nhà bác Tám, tôi không dám đi một mình. Dì tôi phải dắt tôi qua. Đi theo hộ tống tôi, còn có nhỏ Lan Anh.
Bác Tám trai lớn tuổi hơn dượng tôi. Dượng tôi kêu bác bằng anh. Bác Tám gái lớn tuổi hơn dì tôi. Dì tôi kêu bác bằng chị.
Bác trai làm nghề mộc, đi làm thuê cho người ta là chính, nét mặt rắn rỏi, tay chân gân guốc. Bác trai ít gần gủi với con cái bằng gác gái. Bác gái lo bán buôn, chợ búa. Phần bếp núc giao cho Trâm và Quỳnh. Thằng Tạo còn nhỏ, được đi chơi thả dàn. Chị Kim đi làm, được miễn việc nhà, khi rảnh rỗi được quyền nằm đọc tiểu thuyết. Sự phân công trong nhà đại khái như vậy.
Hôm tôi qua, bác trai và bác gái tiếp đón niềm nở và thân mật. Sau khi hỏi chuyện học tập của tôi, và dặn tôi “thường xuyên qua chơi, muốn qua lúc nào cũng được”, hai bác quay qua nói chuyện với dì tôi.
Chính thức đón tiếp tôi là những nhân vật bằng vai phải lứa. Ngồi quanh cái bàn bày sẵn kẹo đậu phộng là chị Kim, Trâm, Quỳnh và tôi. Lan Anh và thằng Tạo thì chạy tới chạy lui trong nhà, thỉng thoảng xề lại gần bàn nhón một miếng kẹo, miếng nào miếng nấy thật to, trông phát tức.
Dòm ba chị em, tôi âm thầm xếp hạng: Quỳnh số một, chị Kim số hai, Trâm số ba. Đó là căn cứ theo bề ngoài, còn bề trong thì tôi chưa biết. Nhưng theo nhận định “khách quan” của tôi, có lẽ Quỳnh vẫn chiếm số một. Tôi nhớ lại buổi trưa hôm trước, Trâm trù ẻo tôi thi rớt, còn Quỳnh bênh tôi chằm chặp. Vả lại, người có nụ cười dễ thương như Quỳnh thì xét bề trong bề ngoài, tứ bề tám hướng, bề nào cũng nhất.
Chị Kim hỏi tôi:
– Chương vô đây, tính thi vào trường nào chưa?
– Dạ, em tính thi vào sư phạm.
– Chà, tính làm ông giáo hén! Chừng nào ra trường em về quê chị dạy đi! Quê chị thiếu thầy giáo dữ lắm!
Cái “quê chị” ở đây tức là Mỹ Tho, nơi bác gái vẫn đi đi về về buôn hột vịt. Gia đình bác Tám trước ở dưới, mới dời lên Sài Gòn được mười mấy năm nay. Họ hàng của bác ở Mỹ Tho còn khá đông.
Chị Kim kêu tôi về dưới quê chị dạy học, chắc là thuận miệng nói chơi thôi nhưng tôi lại nghĩ khác. Tôi nghĩ “sâu sắc hơn: về Mỹ Tho dạy học, đương nhiên là phải “làm rể” ở đó! Chứ tôi quê ngoài Trung tự nhiên đâm đầu xuống Mỹ Tho làm chi! Sung sướng với viễn cảnh đó, tôi gật đầu liền:
– Dạ, ra trường xong là em về đó liền!
Trâm ngồi bên cạnh tôi tằng hắng một tiếng làm tôi hết hồn. Tôi tưởng nó định nói “Chắc gì thằng chả thi đậu” như bữa trước. Nhưng không, lần này nó nói nhẹ hơn:
– Tướng anh làm thầy giáo, học trò sức mấy mà sợ!
Quỳnh từ nãy đến giờ lo ăn kẹo, không nói tiê’ng nào, thỉng thoảng cười với tôi một cái bằng…mắt, bây giờ thấy tính mạng tôi đang bị đe dọa, liền lên tiếng:
– Học trò dữ như chị mới không sợ thầy chứ học trò nào lại không sợ!
Trâm cười tỉnh:
– Mày đừng có nói oan cho tao! Tao mà dữ! Tao hiền thấy mồ!
Rồi Trâm quay qua tôi:
– Phải không anh Chương?
Nó hỏi kiểu đó, tôi đành phải gật đầu.
Trâm ngó Quỳnh, cười hích hích:
– Thấy chưa!
Chị Kim nói:
– Con Trâm bắt chẹt người ta trắng trợn quá! Em phải cảnh giác với nó nghe Chương!
Tôi ngồi cười cười, không nói gì. Xa nhà, nhớ mẹ, nhớ quê, nhớ bạn bè, bây giờ ngồi giữa một gia đình ấm cúng, nhìn mấy chị em cười đùa vui vẻ, lòng tôi cũng đỡ cô đơn.
Tôi ngồi nói chuyện với ba chị em Quỳnh khá lâu. Đến khi mấy dĩa bánh trên bàn đã hết sạch, cả bình trà cũng không còn một giọt, tôi đứng dậy cáo từ. Lúc này ba mẹ Quỳnh đã đi ngủ. Dì tôi và Lan Anh cũng đã về tự hồi nào.
Trâm và Quỳnh tiễn tôi ra tới tận chỗ cửa lưới. Khi Trâm vừa quay vào, Quỳnh đột ngột dúi vào tay tôi một gói giấy nhỏ:
– Cho anh đó!
Tôi sững sờ chưa kịp hỏi thì Quỳnh chạy vụt vào nhà. Có lẽ trong một thoáng, cô bé cảm thấy mắc cỡ về hành động của mình.
Gói giấy nóng hổi trong lòng tay tôi như một con chim non. Tôi đứng lặng trước hiên có đến mười phút để tận hưởng niềm vui bất ngờ đó.
Vào nhà, tôi rón rén tre1o lên gác và hồi hộp mở gói giấy ra. Một chiếc bánh. Một chiếc bánh xinh xắn. Chắc là hồi chiều đi ăn giỗ, Quỳnh đã thó chiếc bánh để dành tặng tôi.
Chiếc bánh xanh xanh đỏ đỏ nom thật hấp dẫn, nửa khuya đói bụng, tôi đã tính “giải quyết” gọn cho rồi nhưng cuối cùng tôi dằn lòng được. Đằng nào đây cũng là tặng vật của Quỳnh, cô bé phải cất công mang từ “phương xa” về cho tôi. Tôi phải coi nó như một món ăn…tình cảm chứ đâu có thể xơi tái nó như chiếc bánh mua ngoài chợ được.
Nghĩ vậy, tôi đành nuốt nược bọt đặt chiếc bánh trên giá sách, chỗ trang trọng nhất. Tôi sẽ không ăn, tôi sẽ bảo quản nó như bảo quản trái tim tôi, để mỗi ngày nhìn thấy nó, tôi sẽ nhớ đến Quỳnh và nhớ rằng Quỳnh luôn nghĩ đến tôi, kể cả lúc…ăn giỗ. Chiếc bánh sẽ nằm ở đó, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác, trang trọng và thiêng liêng, bất diệt và gợi nhớ như một biểu tượng đầy ý nghĩa.
Tôi ngồi chiêm ngưỡng “món ăn tình cảm” của mình một cách ngây ngất, đầu óc tưởng tượng lung tung rồi ngủ thiếp đi lúc nào không hay.
Sáng hôm sau, vừa mở mắt ra tôi đã ngóc đầu dậy dòm lên giá sách. “Kỷ vật” của Quỳnh chuột tha mất tiêu.
Tôi thẫn thờ suốt cả buổi sánh, trong lòng giận mấy con chuột kinh khủng. Nỡ nào thừa lúc tôi ngủ bọn chúng lại xơi mất “món ăn tình cảm” của tôi. Phải chi tôi có thể hóa thành mèo, tôi sẽ thộp cổ cái bọn vô giáo dục đó, dạy cho chúng biết rằng bánh không phải lúc nào cũng dùng để ăn mà có khi còn dùng để biểu lộ một tình cảm khó nói nào đó. Có phải vậy không Quỳnh?

Facebook Google Plus Twitter
Cùng chuyên mục
Cô Gái Đến Từ Hôm Qua
Chưa có ai
Mù hay không ?
Mang nỏ thần đi thi tài
Nhện