Tiểu Li cười khúc khích:
– Gần vậy mà ném không trúng!
Tôi tảng lờ như không nghe thấy, lẳng lặng đi lượm chiếc dép.
Tôi lại đứng vào chỗ cũ, rùn người lấy thế và lại ném. Lần này, chiếc lon bị bắn tung đi và lăn lông lốc. Tiểu Li reo lên:
– Hay quá!
Lúc này, nó không còn đứng ngay trước cửa mà men ra ngoài mé hiên, sát về phía nhà tôi.
Tôi khẽ liếc nó và nói trổng trổng:
– Chơi thì ra chơi!
Từ nãy đến giờ xem tôi “biểu diễn”, Tiểu Li có vẻ háo hức muốn tham gia. Nó dợm chân tính chạy ra mấy lần nhưng cuối cùng kềm lại được:
– Em phải làm toán!
Thái độ “ù lì” của nó khiến tôi nổi sùng:
– Làm toán thì vô nhà đi, mày đứng đó làm gì?
– Em đứng coi chút xíu rồi em chạy vô liền.
Thấy không lay chuyển nó được, tôi đạp chân lên cái lon, hắng giọng:
– Mày nói xạo! Bữa nay còn nghỉ hè, toán đâu mà làm?
Nghe tôi bảo nó xạo, Tiểu Li “ứ” một tiếng trong cổ họng:
– Mẹ em ra toán cho em làm. Mẹ bảo sắp khai trường rồi, em phải ôn lại.
Tôi “xì” một tiếng:
– Trời ơi, tưởng gì! Ôn lại thì chừng nào ôn chẳng được!
Vừa nói tôi vừa nhìn thẳng vào mặt Tiểu Li. Thấy nó có vẻ nao núng, tôi bồi tiếp:
– Ra chơi chút xíu thôi! Còn toán để lát nữa làm!
Không đủ nghị lực để nấn ná thêm nữa, Tiểu Li chạy vụt ra. Nó nhe răng sún ra cười:
– Chơi chút xíu thôi nghen!
Tôi gật đầu:
– Ừ, chút xíu thôi!
Cái “chút xíu” của hai đứa tôi kéo dài từ sáng đến tận trưa. Tôi và Tiểu Li chơi quên trời quên đất.
Đến khi mẹ nó kêu:
– Tiểu Li ơi, về ăn cơm!
Nó mới hoảng hồn ù té chạy về nhà.
Chiều hôm đó, tôi thơ thẩn ngoài sân cả buổi, chẳng thấy Tiểu Li đâu. Tôi kêu tên nó mấy lần cũng chẳng nghe nó đáp lại.
Ngạc nhiên, tôi mon men qua nhà nó, đứng ngoài cửa sổ dòm vô.
Tiểu Li đang ngồi buồn xo trên đi-văng, nhác thấy tôi, nó tươi tỉnh hẳn lên và nhe răng cười.
Tôi hỏi, giọng thì thầm:
– Mày làm gì ở hoài trong nhà vậy?
– Hồi sáng em không làm toán, bây giờ bị phạt.
Vừa nói nó vừa dòm dáo dác chung quanh.
– Phạt sao? – Tôi tò mò hỏi.
– Mẹ bắt em ngồi trên đi-văng cho tới giờ cơm, không được bước chân xuống đất.
Tôi ngó láo liên:
– Mẹ mày đâu rồi?
Tiểu Li chỉ tay ra nhà sau:
– Mẹ em nấu cơm dưới bếp.
Tôi xúi:
– Mày chạy ra chơi lát chạy vô, mẹ mày đâu có biết.
Tiểu Li thè lưỡi:
– Không được đâu! Mẹ mà biết thì chết!
Thấy vì tôi mà nó bị phạt, bụng tôi đâm ra áy náy. Tôi hỏi:
– Tao vô nhà ngồi chơi với mày, mẹ mày có la không?
Tiểu Li cắn môi:
– Em không biết!
Tôi thở dài:
– Thôi, tao đứng đây dòm vô vậy! Mẹ mày lên thì tao chạy.
Tiểu Li cười khúc khích:
– Anh làm như ăn trộm!
Tôi cũng cười. Nhìn Tiểu Li loay hoay trên chiếc đi-văng, không dám thò chân xuống đất, tôi thấy thương thương nó thế nào. Từ khi chơi với Tiểu Li, đây là lần đầu tiên lòng tôi tự dưng “mềm” như bún!
– o O o –
Việt An cũng làm tôi mềm lòng, không những “mềm” mà còn… “nát” nữa.
Sau hai đợt “kiểm tra” thất bại, tự dưng tôi đâm ra thẫn thờ. Mỗi lần nghĩ đến Việt An, lòng tôi lại dậy lên một cảm giác buồn bã pha lẫn giận dỗi. Tôi ngâm thơ Xuân Diệu:”Hôm nay tôi đã chết trong người…” và thấy tay chân xụi lơ, y như chết thật!
Đã vậy, Hải gầy lại cứ đi theo tôi tò tò, hỏi gặng:
– Giờ sao mày?
– Sao là sao?
– Phải tính sao chứ?
Tôi bực mình, gắt:
– Tính cái con khỉ! Tao “chạy” rồi đó, mày nhào vô đi!
Nó cười hì hì:
– Mày còn chưa ăn thua, tao nhằm nhò gì!
– Nhằm nhò hay không kệ mày, còn tao thì tao xin “kiếu”!
Hải gầy trợn mắt:
– Giỡn hoài mày!
– Tao giỡn hồi nào!
Hải gầy vẫn không tin:
– Mày bỏ cuộc thật hả?
Tôi mím môi:
– Thật!
Hải gầy nhìn tôi lom lom. Ngồi im một hồi, nó nhún vai, nói trổng:
– Yêu mà tự ái!
Tôi vặc lại:
– Tao tự ái hồi nào?
Hải gầy khịt mũi:
– Chứ gì nữa!
Rồi nó dẫn lời của George Sand:
– Tự ái trong tình yêu chẳng khác gì vụ lợi trong tình bạn!
Lần này, tôi ngồi im không nói. Thấy tôi có vẻ chịu “tiếp thu”, Hải gầy làm tới:
– Tao nói có đúng không?
Không thể tránh né, tôi đành thở dài:
– Mày thử ở trong trường hợp tao coi! Quê thấy mồ!
– Thua keo này ta bày keo khác! Có gì phải quê!
Tôi chép miệng:
– Tao thấy sao khó quá!
Hải gầy lại dẫn lời của Nguyễn Bá Học để động viên tôi:
– Tình yêu khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông.
Thấy nó sửa hai chữ “đường đi” thành “tình yêu” tỉnh bơ, tôi không nhịn được cười. Tôi hỏi nó:
– Hôm trước hễ mở miệng là mày bàn ra, sao hôm nay mày bàn vô hăng hái quá vậy?
Hải gầy ngẩn tò te:
– Tao cũng không biết nữa! Chắc là tại tao có cảm giác… Việt An yêu mày.
Tôi hừ mũi, chơi đòn “gậy ông đập lưng ông”:
– Mày dựa trên cơ sở khoa học nào?
– Tao đoán.
Tôi tiếp tục “phản kích”:
– Chuyện tình yêu không thể đoán mò được!
Hải gầy chẳng tỏ vẻ gì lúng túng. Nó nói tỉnh khô:
– Mày không biết gì hết! – đây không cần cơ sở khoa học gì ráo, chuyện tình cảm ta chỉ có thể cảm nhận bằng… trái tim thôi!
Cái thằng, nó quay 180 độ mà chẳng hề mắc cỡ tí ti! Tôi nhún vai:
– Mày là đứa không có lập trường.
Hải gầy nhe răng cười:
– Tao cần quái gì lập trường! Mày thành công là tao vui rồi!
Tôi bĩu môi:
– Tốt quá hén!
Hải gầy gật gù:
– Tao nói thật đấy! Bắt đầu từ ngay mai tao sẽ “nghiên cứu” tình cảm của Việt An. Tao sẽ nắm bắt những tín hiệu nó phát ra để “tham mưu” cho mày.
Mặc dù thừa biết Hải gầy là chúa ba hoa nhưng thấy nó nhiệt tình sát cánh bên tôi trong lúc “hiểm nghèo” và nhất là nghe câu nói êm ái “Việt An yêu mày” của nó, lòng tôi tự nhiên ấm ám và “khí thế” hẳn lên.
Thấy tôi chấp nhận nghề “thầy dùi” của nó, Hải gầy khoái lắm. Nó hào hứng vạch một “chương trình hành động” dài dằng dặc và đầy quyến rũ. Nào là những lúc tôi lên bảng trả bài, nó sẽ quan sát ánh mắt của Việt An, coi thử Việt An chớp mắt mấy lần và nhìn trộm “dung nhan” tôi mấy cái, mỗi cái kéo dài mấy phút; nào là những lúc tôi trò chuyện với Việt An, nó sẽ rình coi Việt An có cười với tôi không, cười mấy kiểu, cười “lạnh lùng” hay cười “ấm áp”, rồi khi Việt An cười, nó còn phải nhận xét miệng và mắt có “phối hợp đồng bộ” không, hay là miệng như hoa tươi mà mắt như hoa… héo. Căn cứ vào những “tư liệu” quí giá và sống động đó, nó sẽ phân tích và rút ra những kết luận có giá trị để vạch đường đi nước bước cho tôi.
Sai khi công bố dự định lớn lao và đầy hiệu quả (trên lý thuyết) của mình, Hải gầy kết luận thật “ngọt”:
– Mọi chuyện sẽ đâu vào đấy! Cái gì của César phải trả lại cho César, Việt An của mày thì phải trả lại cho… tao!
Tôi nhăn mặt:
– Giỡn vô duyên!
– Xin lỗi, tao lộn! – Hải gầy bá vai tôi, cười hề hề.
Nhưng đúng như ông bà nói “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”, chúng tôi bàn bạc với nhau đã đời, hôm sau đến lớp, chẳng thấy Việt An đâu.
Hôm sau nữa cũng vậy.
Tôi hỏi Hồng Hoa:
– Sao Việt An nghỉ học hai ngày nay vậy?
– Nó bệnh.
Tôi thấp thỏm:
– Bệnh gì vậy?
– Cảm. Chiều nay ông đi thăm nó đi!
Thấy tôi ngần ngừ, Hồng Hoa lại hỏi:
– Sao, đi không?
Tôi tặc lưỡi:
– Tôi ngại lắm.
Hồng Hoa nheo mắt:
– Có gì đâu mà ngại! Nếu ngại thì ông đi với tôi.
Chiều hôm đó, tôi theo Hồng Hoa đến nhà Việt An.
Nhà Việt An nằm trên một con đường nhỏ, có khoảnh sân rộng đằng trước. Ngay cổng có hai cây dừa cao thật cao, trĩu đầy những trái. Đi ngang qua, tôi cứ len lén nhìn lên, sợ trái rớt trúng đầu.
Việt An đang quấn chăn ngồi trên giường, thấy tụi tôi vô, liền đứng dậy.
Tôi giơ tay:
– Thôi, Việt An ngồi nghỉ cho khỏe! Đứng dậy chi!
Nói xong, tôi đặt mấy trái cam trên bàn rồi ngồi xuống ghế. Còn Hồng Hoa chạy đi pha nước.
Tôi nhìn Việt An, thấy nó xanh xao hơn thường ngày, tôi đâm ra “thương” nó ghê gớm, nỗi giận hờn trước đây bay vèo đâu mất. Tôi dịu dàng hỏi:
– Việt An đã đỡ nhiều chưa?
Việt An đưa tay vuốt tóc:
– Hơi hơi! Chắc ba, bốn bữa nữa mới đi học lại được.
Tôi nhìn mấy cuốn tập trên bàn:
– Mấy bữa nay có ai chép bài giùm Việt An không?
Việt An không trả lời thẳng câu hỏi của tôi. Nó nhìn ra cửa sổ, nói lơ lửng:
– Chừng nào hết bệnh, tôi mượn tập chép lại chứ lo gì!
Như vậy là chưa có ai “giành phần”. Tôi ấp úng đề nghị:
– Việt An đưa tập tôi chép bài giùm cho!
Vừa nói tôi vừa liếc chừng Việt An, trong lòng thấp thỏm sợ nó từ chối. Nó đã từ chối thẳng thừng những đề nghị của tôi bao nhiêu lần rồi!
Nhưng lần này Việt An tỏ ra dễ dãi hơn. Chắc là do bị bệnh nên sức “đề kháng” của nó yếu đi so với ngày thường. Dòm vẻ mặt căng thẳng vì chờ đợi của tôi, Việt An mỉm cười:
– Tùy anh! Nếu anh rảnh!
Vậy tức là Việt An đã bằng lòng. Tôi hớn hở nhủ bụng: rảnh thì không rảnh, nhưng vì Việt An thì từ “bận” tôi chuyển thành “rảnh” mấy hồi!
Lúc này, tôi chỉ tiếc là không có “chuyên gia” Hải gầy ở đây. Nếu có, nó sẽ nghiên cứu giùm tôi nụ cười mím chi của Việt An vừa rồi là cười “nóng bỏng” hay cười “mát mẻ”. Nhưng dù không giỏi “chuyên môn” bằng nó, chỉ với tư cách “người phàm mắt thịt” thôi, tôi cũng có thể “cảm nhận bằng trái tim” sự dịu dàng êm ái tỏa ra từ nụ cười của Việt An.
Bữa đó, tôi ôm chồng tập của Việt An về nhà như ôm “chiến lợi phẩm”, mặt mày hí ha hí hửng.
Hải gầy hay tin, liền chạy tới nhà tôi “tham quan”. Sau khi săm soi mấy cuốn tập của Việt An, nó gật gù nhận định:
– Nếu không có một tình cảm đặc biệt, Việt An sẽ không cho mày chép bài giùm đâu! Tụi con gái thường rất kỹ trong việc chọn mặt gởi… tập!
Khi phản đối chuyện tình cảm của tôi, Hải gầy phản đối tàn mạt. Còn khi đã tán vô, nó không ngại ngần đưa tôi lên tuốt mây xanh. Nhưng mặc dù biết vậy, khi nghe nó tán hươu tán vượn, tôi vẫn cảm thấy nở từng khúc ruột và trong tâm trạng cực kỳ phấn khởi đó, tôi đã tuyên bố cho luôn nó bộ cờ bằng ngà hiện nó đang mượn của tôi.
Kể từ giây phút đó, như một con ong thợ chăm chỉ, tôi lao vào chép bài đến rả cả tay. Việt An mới nghỉ có hai hôm mà tôi phải chép cả buổi trời. Nếu nó nghỉ thêm một tuần nữa, chắc tôi phải ngồi chép đến cụp xương sống mất!
Nghĩ đến vin ảnh đó, tôi đâm ngán nên sáng hôm sau đến lớp thay vì chép bài vô tập của tôi thì tôi chép bài thẳng vô tập của Việt An. Như vậy về nhà tôi khỏi phải mất công chép lại. Còn trong tập của tôi thỉnh thoảng thiếu một, hai bài là… chuyện thường tình! Những bài quan trọng thì sắp đến kỳ thi kiểm tra, tôi sẽ học chung với Hải gầy, không chạy đi đâu mà sợ!
Tính toán đâu đó kỹ lưỡng, tôi ung dung đi học “giùm” Việt An. Tập vở của tôi thì tôi nhét kỹ trong cặp, từ đầu giờ đến cuối giờ chẳng thèm lôi ra lấy một lần.
Không dè có một hôm, cô Hường nổi hứng kêu tôi lên bảng trả bài.
Sự “ưu ái” đầy bất ngờ này khiến tôi toát mồ hôi lạnh. Nấn ná một hồi chẳng biết làm sao, tôi đành xách tập lên bảng, trong bụng lo ngay ngáy.
Đúng như tôi nghĩ, vừa lật tập của tôi ra, cô Hường trố mắt:
– Bài học hôm trước đâu?
Tôi cắn môi không đáp.
Cô Hường lật thêm một vài tờ và lại kêu lên:
– Bài hôm trước nữa cũng không có!
Cô quay nhìn tôi:
– Sao em đi học mà không chép bài?
Tôi đáp lí nhí:
– Tại cây viết của em hết mực nửa chừng!
Cô Hường lắc đầu tỏ vẻ không tin. Cô lặng lẽ kiểm tra tiếp cuốn tập bê bối của tôi. Đột nhiên, cô nhíu mày:
– Bài học thì không chép, lại chép bậy bạ gì đây?
Tôi chưa kịp hiểu ra chuyện gì thì cô Hường đã đọc to lên:
– Lòng em như chiếc lá khoai
Đổ bao nhiêu nước ra ngoài bấy nhiêu!
Cô Hường đọc chưa dứt, cả lớp đã cười rần rần.
Có đứa nói:
– Bạn Thư đang thất tình, cô ơi!
Một đứa khác oang oang:
– Đổ trà đá mới ra ngoài chứ đổ xi-rô kem thử coi! Tụi con gái nó “đá bạo” liền!
– Đổ vàng cũng không thèm! – Tiếng một đứa con gái phản ứng.
Trong khi tụi bạn trong lớp hào hứng tranh nhau nói thì tôi đứng chôn chân tại chỗ, mặt đỏ rần đến mang tai.
Ngượng đến chín người, tai ù đặc, cô Hường nói với tôi câu gì đó tôi cũng không nghe rõ. Cầm lấy cuốn tập, tôi vội vã trở về chỗ ngồi, hai chân như muốn rời ra khỏi người.
Từ lúc đó cho đến khi tiếng trống hết giờ vang lên, tôi ngồi học mà không dám nhìn ai, kể cả Hải gầy.
Thế là lần đầu tiên trong đời tôi lãnh zero. Có phải vì Việt An?
Phần 5
tháng hè trôi qua trong chớp mắt.
Năm đó, tôi xin vào trường Sao Mai, học chung lớp với Tiểu Li.
Ngày khai giảng, mẹ tôi dẫn tôi đến trường. Đi bên cạnh tôi là Tiểu Li. Dọc đường, nó cứ liếc trộm tôi và cười khúc khích.
Tôi cau mày:
– Cười gì cười hoài vậy?
Nó rụt cổ, đáp:
– Anh giống như em bé.
Nói xong, nó lại nhe răng sún ra cười. Chắc nó chê tôi không dám rời mẹ lấy nửa bước! Tôi đoán thầm như vậy và lặng lẽ rút tay khỏi tay mẹ tôi. Nhưng mẹ tôi kéo tôi lại:
– Để mẹ dẫn đi! Xe cộ nườm nượp con không thấy sao!
Nhưng tôi vẫn kiên quyết vùng tay ra:
– Con đi một mình được mà! Tiểu Li nó cũng đi một mình kìa!
Vừa nói tôi vừ vọt lên trước khiến mẹ tôi phải hối hả đuổi theo.
Đến trường, sau khi trao đổi với cô giáo, mẹ tôi quay lại dặn dò tôi đủ thứ. Tôi nghe câu được câu mất, đầu cứ gật lia.
Trước khi ra về, mẹ tôi còn kêu Tiểu Li lại nói:
– Cháu học ở đây lâu rồi, có gì cháu giúp đỡ bạn Thư với nghen!
Tiểu Li dạ lí nhí trong miệng nhưng trông vẻ mặt tươi hơn hớn của nó, tôi biết nó khoái cái nhiệm vụ “kềm cặp” tôi lắm.
Đợi cho mẹ tôi về rồi, tôi bảo nó:
– Mày ngon quá hén!
– Ngon gì đâu?
– Vậy mà không ngon! Mẹ tao bảo mày canh chừng tao!
Nó chớp mắt:
– Canh chừng đâu mà canh chừng! Mẹ anh chỉ bảo em giúp đỡ anh thôi!
Tôi liếm môi:
– Giúp đỡ là sao?
Tiểu Li ngẩn người ra:
– Em cũng chẳng biết.
Tôi nghĩ ngợi một lát rồi gật gù:
– Tao biết rồi.
– Biết sao? – Tiểu Li trố mắt.
Tôi hắng giọng:
– Ý của mẹ tao là hôm nào tao làm biếng chép bài mày phải chép giùm tao. Giúp đỡ là vậy đó!
Tiểu Li “xí” một tiếng:
– Ý của mẹ anh đâu phải như vậy!
Tôi khăng khăng:
– Vậy đó! Mẹ tao chứ đâu phải mẹ mày mà mày biết!
Tiểu Li không chịu thua. Nó tuyên bố một câu “xanh dờn” khiến tôi rụng rời tay chân:
– Để chiều nay em về hỏi lại mẹ anh coi thử phải ý mẹ anh là như vậy không.
– Thôi, thôi, đừng hỏi! – Tôi hốt hoảng ngăn chặn.
– Sao đừng hỏi?
– Tao nói đừng hỏi là đừng hỏi! Mày mà hỏi là tao nghỉ chơi mày ra liền!
Mỗi lần tôi tung ra đòn “nghỉ chơi”, Tiểu Li đều nhanh chóng đầu hàng. Lần này cũng vậy, nghe tôi dọa, suốt buổi học hôm đó Tiểu Li không dám nhắc đến chuyện “hỏi đi hỏi lại” thêm một lần nào nữa.
Ở trong lớp, tôi ngồi ở đầu bàn thứ hai, sát trong tường. Tiểu Li ngồi kế tôi, phía bên phải. Cạnh nó còn thêm ba đứa nữa.
Đi học đến ngày thứ ba, tôi đánh rơi mất lọ mực. Không dám nói mẹ, sợ bị mắng, tôi đành phải chấm chung lọ mực của Tiểu Li.
Có dịp được “giúp đỡ” tôi, Tiểu Li mừng lắm. Nó hào phóng đẩy lọ mực về phía tôi, dặn:
– Anh chấm nhẹ nhẹ thôi! Chấm mạnh, rè ngòi viết hết!
Hai đứa chấm chung một thời gian, lọ mực cạn queo.
Tôi bảo Tiểu Li:
– Mày về đổ thêm nước vô đi!
Tôi bảo sao, Tiểu Li làm vậy. Hôm sau, nó đưa lọ mực khoe tôi:
– Nước đầy tràn trong này!
Tôi cầm lọ mực đưa lên tai, lắc thử. Nghe tiếng óc ách, tôi nhăn mặt, nói:
– Mày ngu quá! Đổ nước in ít thôi! Nước nhiều như thế này, mực nhạt thếch, làm sao viết ra chữ!
Tôi nói quả không sai. Tới giờ học, cả tôi lẫn Tiểu Li không đứa nào viết được lấy một chữ. Chấm mực y như chấm nước lã, thiệt chán!
Tôi bực mình thò ngòi viết sát đáy lọ mực, khuấy mạnh. Khi rút cây viết lên, tôi thấy một cục mực dính toòng teng ở ngòi viết. Cục mực đen thùi lùi nom giống hệt con ruồi.
Đang rầu rĩ, tôi nóng tiết bặm môi rảy mạnh một cái. Cục mực như muốn chơi xỏ tôi. Nó văng ra và hớn hở đập “bép” một phát vào giữa cuốn tập của Tiểu Li.
Bị bất ngờ, Tiểu Li giật mình kêu lên:
– Chết rồi!
Kêu xong, nó hoảng hồn lấy tay bụm miệng. Nhưng cô giáo đã nghe thấy.
– Gì vậy Tiểu Li?
Cô hỏi và rời bàn bước xuống chỗ hai đứa tôi. Tôi xanh tái mặt mày. Tiểu Li cũng vậy. Nó ấp úng thưa:
– Dạ, không có gì ạ.
Cô giáo xoay cuốn tập của Tiểu Li lại:
– Vậy mà không có gì! Mực ở đâu dính vô đây?
Tiểu Li liếc tôi khiến tôi nín thở. Nhưng Tiểu Li không tố cáo tôi. Nó quay nhìn cô giáo, rụt rè đáp:
– Thưa cô, em lỡ tay làm rớt ạ.
– Từ nãy đến giờ em làm gì mà không chép bài?
Tiểu Li cắn môi:
– Thưa cô, mực lợt quá, em viết không được ạ.
Trong khi cô “truy” Tiểu Li, tôi len lén gấp cuốn tập của mình lại và khoanh tay chặn lên trên, mắt giả vờ chăm chú nhìn lên bảng.
Nhưng tôi không bị cô giáo hỏi. Chỉ có Tiểu Li bị phạt đứng tại chỗ về tội ngồi chơi không chép bài, lại còn làm dây mực vô tập.
Nhìn Tiểu Li đứng cúi gằm mặt xuống đất, lòng tôi bâng khuâng quá chừng. Khi nãy nếu nó không “cứu” tôi chắc tôi đã bị phạt thay cho nó rồi.
Để cảm ơn nó, trên đường về, tôi móc túi cho nó mấy viên bi:
– Cho mày nè!
Tiểu Li lắc đầu:
– Em không lấy đâu! Con gái ai lại chơi bi!
Tôi khịt mũi:
– Mày ngu quá! Tao đâu có bảo mày chơi! Mày kiếm một cái lọ thủy tinh bỏ mấy viên bi rồi đổ nước vào!
– Chi vậy?
– Chơi vậy thôi! Để trên bàn học trông đẹp lắm!
Nghe tôi quảng cáo, Tiểu Li bùi tai liền lấy mấy viên bi bỏ vào cặp.
Về tới nhà chưa kịp ăn cơm, tôi đã nghe Tiểu Li kêu om sòm:
– Anh Thư ơi, Anh Thư!
Tôi chạy ra cửa dòm sang:
– Gì vậy?
Tiểu Li ngoắc lia:
– Qua đây!
Tôi chạy qua.
Tiểu Li chỉ tay lên bàn:
– Anh coi kìa!
Hóa ra Tiểu Li đã bỏ mấy viên bi tôi cho vào trong ly nước. Nó còn ngắt mấy bông cúc trước sân cắm vào ly. Tôi ngắm nghía một hồi rồi buột miệng khen:
– Đẹp ghê hén!
– Ừ, đẹp ghê! – Tiểu Li hớn hở nói theo.
– Sao mày không kiếm một cái lọ?
– Không có lọ, em bỏ trong ly.
Tôi gật gù:
– Bỏ trong ly cũng được. Nhưng cái ly lớn quá, để hôm nào tao đánh bi thắng nhiều nhiều tao sẽ cho mày thêm vài viên nữa bỏ vào.
– Anh nhớ nghen!
– Nhớ chứ! Tao lỡ quên thì mày nhắc tao!
Tôi cười cười nhìn Tiểu Li và bỗng dưng tôi phát hiện ra đôi mắt của nó long lanh không khác gì những viên bi đang tắm mình trong nước đằng kia.
– o O o –
Đôi mắt Việt An cũng giống hai viên bi nhưng nom “oai phong lẫm liệt” hơn hai viên bi của Tiểu Li nhiều.
Lúc này, hai viên bi của Việt An đang nhìn tôi với vẻ trách móc:
– Lần sau có chết tôi cũng không đưa tập cho anh chép bài giùm nữa!
Tôi khụt khịt mũi mấy cái rồi ngồi im trên ghế chịu trận.
Quả thật tôi cũng không biết phải ăn nói với Việt An như thế nào. Chuyện tôi lãnh zero hôm trước không biết ai “truyền đạt” lại mà tôi mới thò đầu vô nhà, Việt An đã lôi tôi ra “khiển trách”. Chắc là Hồng Hoa nói, tụi con gái là chúa mách lẻo! Tôi ấm ức nhủ bụng và cựa quậy người trên ghế một cách khó khăn.
Việt An lại hỏi:
– Anh chép câu thơ “Lòng em như chiếc lá khoai…” là anh muốn ám chỉ ai vậy?
Tôi giật thót:
– Tôi đâu có ám chỉ ai! Thấy hay, tôi chép chơi vậy thôi!
Việt An hứ một tiếng:
– Anh là chúa chép bậy! Bữa trước chép bậy bị bắt đền sách một lần rồi mà anh chưa sợ hả?
Tôi lại ngồi im, lúng túng một cách khổ sở, hệt như hôm nào tôi đứng trước cô Hường.
Dường như sự loay hoay tội nghiệp của tôi khiến trái tim đá của Việt An “mẻ” một miếng. Nó hỏi:
– Chiều nay anh rảnh không?
Tôi ngạc nhiên:
– Chi vậy?
– Đi xem phim.
Tôi nuốt nước bọt:
– Đi với ai?
Việt An nói tỉnh bơ:
– Tôi rủ anh đi.
Tôi như không tin vào tai mình:
– Thật không?
Việt An “nắn gân” tôi:
– Thật, nhưng anh bận thì thôi!
Tôi hốt hoảng:
– Không, không, tôi có bận gì đâu!
Điệu bộ của tôi khiến Việt An bật cười:
– Không bận thì thôi! Chiều nay đúng năm giờ anh đợi tôi trước rạp Quốc Tế!
Trời ơi, Việt An còn cho tôi “điểm hẹn tình yêu” nữa, thế có “chết” tôi không! Tôi ra khỏi nhà Việt An, mặt mày xây xẩm, suýt chút nữa đâm đầu vào bánh xe ô tô.
Tôi đi tìm cả buổi mới gặp Hải gầy. Nghe tôi khoe vung vít, nó cười cười:
– Xạo đi mày!
Tôi huơ tay:
– Mày không tin thì chiều nay đi với tao.
– Việt An hẹn mày, tao đi theo “cản mũi kỳ đà” bất tiện lắm.
– Ai bảo mày xuất đầu lộ diện chi! Mày cứ đứng lấp ló đâu đó để chứng kiến cảnh “sum họp” của hai đứa tao.
Sau một hồi do dự, Hải gầy đồng ý. Nó có vẻ không vui về buổi hẹn hò đầu tiên của tôi. Có lẽ nó cho rằng nó không có đóng góp gì trong “thành quả” này.
Đúng bốn giờ rưỡi chiều, tôi đã có mặt trước rạp Quốc Tế, quần áo bảnh bao, tóc tai láng coóng. Hải gầy ngồi thậm thụt trong quán cà phê bên kia đường. Nó mang kiếng đen, nón kê – pi kép sụp xuống trán, hệt như một thám tử chuyên nghiệp.
Tôi coi đồng hồ từng phút một. Chưa bao giờ tôi thấy thời gian trôi chậm chạp như lúc này, cứ y như rùa bò. Hai cây kim nhích từng bước, uể oải, lề mề, trông phát ghét. Vậy mà trong sách người ta nói thời gian trôi vùn vụt như ngựa phi qua cửa sổ, thật sạo hết chỗ nói!
Đúng năm giờ, không thấy Việt An đâu, tôi đã bắt đầu bồn chồn. Năm giờ là giờ tan sở nên lưu lượng xe cộ qua lại trên con đường trước rạp mỗi lúc một đông. Tôi quay đầu nhìn ngang nhìn dọc, trông ngược trông xuôi muốn gãy cả cổ. Có nhiều cô gái trông từ xa giống hệt Việt An, nhác thấy tim tôi đã muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, nhưng khi đến gần hóa ra không phải. Tôi mừng hụt như vậy cả chục lần, trong bụng vừa rầu vừa cáu.
Bên kia, Hải gầy đã tháo cặp kiếng “điệp viên” ra khỏi mắt. Chắc nó nóng ruột muốn “quan sát mục tiêu” giùm tôi.
Tội nghiệp nó, chắc từ nãy đến giờ, nó đã uống cả chục ly cà phê!
Trong lúc tôi bắt đầu chán nản và đinh ninh Việt An cho tôi “leo cây” thì bỗng một giọng nói vang lên từ sau lưng:
– Anh đợi lâu chưa?
Tôi giật mình quay phắt lại. Thấy Việt An đứng ngay bên cạnh, tôi mừng đến líu lưỡi:
– Chư… ư… ưa, chưa! Tôi mới đến!
Việt An bĩu môi:
– Hẹn năm giờ mà bây giờ anh mới đến?
Tôi càng cuống:
– Đâu có! Tôi đến hồi bốn giờ rưỡi!
Việt An mỉm cười độ lượng:
– Thôi, anh vào mua vé đi!
Chỉ đợi có vậy, tôi hí hửng phóng vào phòng vé.
Nhưng tôi vừa dợm bước, Việt An đã gọi giật:
– Anh nhớ mua bốn vé nghen!
Tôi ngạc nhiên:
– Sao lại mua bốn vé?
Việt An mỉm cười chỉ vào hàng quà xế cửa rạp. Tôi nhìn theo và tái người khi nhìn thấy Hồng Hoa và Chiêu Minh đang lúi húi mua mấy bịch cóc, ổi. Rõ ràng tụi nó đang chuẩn bị đóng vai “kỳ đà” trong buổi xem phim hôm nay. Bất giác tôi buông một tiếng thở dài não ruột và đau khổ nhận ra “tình yêu khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì bị Hồng Hoa và Chiêu Minh phá đám liên miên”.
Chẳng lẽ đến đây rồi lại bỏ về, tôi đành bước vào phòng vé trên đôi chân thất thểu. Khi tôi cầm vé đi ra, Hồng Hoa hỏi:
– Đi coi phim với tụi này, sao mặt mày ông bí xị vậy?
Tôi cười gượng:
– Bí xị gì đâu! Tại chen vô mua vé hơi mệt chút thôi!
Hồng Hoa đưa tôi một trái ổi:
– Ông ăn cái này vô là hết mệt liền!
Nó đâu có biết bây giờ tôi ăn cả trái… đất cũng không hết “mệt” nữa là trái ổi cỏn con này. Tôi cầm lấy trái ổi và cáu tiết bóp mạnh, hệt như Trần Quốc Toản bóp trái cam ngày trước. Nhưng trái ổi cứng hơn trái cam nhiều. Tôi bóp một hồi, mấy ngón tay đau điếng mà trái ổi vẫn trơ trơ, không móp một tí ti nào. Tức mình, tôi bèn đưa lên… miệng, ngoạm một miếng và… ăn ngon lành.
Khi đi vào rạp, tôi cố tình đi ngay trước Việt An. Tiếp theo là Hồng Hoa và Chiêu Minh. Tôi chắc mẩm đi theo trật tự này, thế nào tôi cũng được ngồi cạnh Việt An. Được như vậy, tôi cũng đỡ buồn phần nào.
Ai dè khi tôi bước vào chỗ ngồi trong dãy ghế trống thì Việt An không chịu vào ngay theo mà đứng lại bên ngoài nhường cho Hồng Hoa và Chiêu Minh vào trước.
Theo cái “thế trận” đó, Hồng Hoa và Chiêu Minh vẫn án ngữ ngay trước trái tim tôi! Biết như thế này thà ở nhà nằm ngủ sướng hơn! Tôi cay đắng nhủ bụng và ngồi tựa lưng vào ghế, nhắm mắt lại. Tôi định phản đối buổi đi xem phim vô duyên hôm nay bằng cách ngủ ngay trong rạp.
Hồng Hoa quay sang thấy tôi ngủ, liền hỏi:
– Ông làm gì vậy?
Tôi tảng lờ không đáp.
Nó hừ mũi:
– Thức dậy đi! Đi xem phim với phụ nữ mà ngồi ngủ, ông không biết mắc cỡ hả?
Tôi không mắc cỡ về chuyện ngủ trong rạp nhưng lại mắc cỡ vì cái giọng chê bai của nó. Nó lại nói oang oang, chắc Chiêu Minh và Việt An nghe hết. Điều đó khiến tôi điên tiết, nhưng chẳng biết làm gì tôi đành phải mở mắt ra.
Nhưng dù mở mắt thao láo, tôi vẫn chẳng thấy gì trên màn ảnh. Đầu óc tôi mải loay hoay nghĩ đến mối tình bầm dập của mình. Tôi rủ đi xem phim thì Việt An không đi. Đến khi nó rủ thì lại kéo theo một lô một lốc bạn bè, làm như tôi muốn đi chơi với nó thì phải đi “kèm”, giống như ở nhà hàng muốn uống bia phải kèm mồi vậy.
Nghĩ lan man một hồi, tôi lại giật mình nhớ đến Hải gầy. Khi nãy đang cơn bối rối, tôi quên liếc qua chỗ nó xem nó phản ứng ra sao. Thế nào sáng mai gặp nó, tôi cũng bị nó giỨễu cợt một mẻ ra trò.
Nghĩ vơ vơ vẩn vẩn, phim hết lúc nào tôi chẳng hay. Đến khi đèn trong rạp bật sáng, tôi mới giật mình đứng dậy.
Ra khỏi rạp, Việt An hỏi tôi:
– Phim hay không?
Tôi xẳng giọng:
– Dở ẹc!
– Phim vậy mà dở! Dở chỗ nào?
Tôi ú ớ:
– Dở ở chỗ… ở chỗ…
Thấy tôi cà lăm, Việt An lấn tới:
– Chỗ nào?
Bị “dồn vào chân tường”, tôi nổi điên nói đại:
– Dở ở chỗ… xem phim mà đi tới bốn người!
Việt An liếc tôi:
– Chứ theo anh thì sao?
Sẵn trớn, tôi “đề nghị” luôn:
– Mỗi lần đi hai người thôi! Lần này hai người, lần sau hai người!
Việt An cười tỉnh:
– Dễ thôi!
Tôi trố mắt:
– Vậy mà dễ?
Việt An nhún vai:
– Chứ sao! Tuần sau áp dụng liền!
– Ngay tuần sau?
– Ừ, ngay tuần sau.
Tôi nín thở, hỏi dò:
– Tuần sau hai người nào đi trước?
– Tôi với Hồng Hoa.
Một lần nữa, bằng một cú “direct” cực mạnh và đầy bất ngờ, Việt An đã cho tôi đo ván thảm hại, hệt như Myke Tyson đã kết liễu Micheal Spinks sau một loạt động tác giả hư hư ảo ảo.
Tôi len lỏi vào bãi giữ xe như đi trong một màn sương, những bóng người chung quanh chập chờn và nhòe nhoẹt.
Khi tôi lững thững dắt xe ra đã thấy Việt An, Hồng Hoa và Chiêu Minh đang đứng đợi.
Việt An nhìn tôi, rủ:
– Ghé lại đường Bùi Thị xuân ăn chè đi!
Tôi lắc đầu:
– Tôi phải đi công chuyện ngay bây giờ.
Hồng Hoa nheo mắt:
– Công chuyện gì giờ này?
Tôi tặc lưỡi:
– Thật mà! Tôi có hẹn!
– Hẹn với cô nào phải không?
Mặc cho nó khiêu khích, tôi lặng lẽ đạp xe đi.
Chẳng biết đi đâu, tôi đạp xe lòng vòng trong thành phố cho đến tận tối mịt. Khi nỗi giận dỗi và muộn phiền đã vơi bớt, tôi nghe bụng đói meo, liền vội vã chạy về nhà.
Mẹ tôi báo:
– Thằng Hải tới tìm con, đợi lâu quá không được nó về rồi.
Phần 6
Tôi hứa với Tiểu Li tôi sẽ cho nó thêm vài viên bi nữa để bỏ vô ly nước. Nhưng đó là trong trường hợp tôi đánh ăn kia. Còn khi tôi chơi thua, tôi có quyền không giữ lời hứa. Thậm chí tôi còn có thể… đòi lại những viên bi tôi đã cho nó trước đây.
Tôi nhủ bụng như vậy và chạy qua nhà Tiểu Li.
Thấy tôi qua, Tiểu Li mừng lắm. Nó hỏi:
– Anh đem bi cho em hả?
Tôi nói thẳng thừng:
– Không. Tao qua đòi lại mấy viên bi bữa trước.
Tiểu Li chưng hửng. Nó thụt lui một bước:
– Sao kỳ vậy?
Tôi nhún vai:
– Có gì đâu mà kỳ! Tao chơi thua hết rồi, mày trả mấy viên bi kia lại cho tao chơi tiếp.
Tiểu Li nhăn nhó:
– Em không trả đâu! Trả cho anh, anh chơi thua nữa thì sao?
Tôi gắt:
– Thua sao được mà thua! Trả đây!
Tiểu Li không đáp. Nó chạy lại bàn ôm cứng cái ly.
Thấy nó ngoan cố, tôi sầm mặt bước lại và giằng cái ly ra khỏi tay nó. Tiểu Li tru tréo:
– Trả cho em! Trả cái ly cho em!
Mặc cho nó la, tôi thản nhiên dốc ngược cái ly đổ nước ra và tóm mấy viên bi bỏ vào túi quần. Tiểu Li theo dõi hành động côn đồ của tôi bằng ánh mắt bất lực và tuyệt vọng. Nó ngồi bệt xuống đất khóc thút thít.
“Ăn cướp” mấy viên bi xong, tôi đặt cái ly lên bàn, nói:
– Đừng khóc nữa! Ngày mai tao trả lại cho mày gấp đôi chỗ bi này!
Tiểu Li không màng đến những lời hứa hẹn của tôi. Nó cứ đòi nằng nặc:
– Em không biết đâu! Anh trả mấy viên bi lại cho em!
– Mai tao trả!
Tôi buông thõng một câu và lạnh lùng bỏ đi, không thèm liếc nó một cái.
Đi được mấy bước, tôi nghe tiếng Tiểu Li vang lên sau lưng:
– Anh không trả mấy viên bi cho em, em nghỉ chơi anh ra luôn!
– Cho mày nghỉ!
Nói xong, tôi chạy tuốt.
Thực ra, tôi định mượn đỡ mấy viên bi của Tiểu Li một bữa thôi. Đánh ăn, tôi sẽ trả lại cho nó, thậm chí tôi còn cho thêm.
Định bụng như vậy nhưng nào có được. Cầm mấy viên bi ra chơi một lát, tôi thua sạch sành sanh, đành đi tay không về nhà, mặt mày buồn xo. Nhớ đến cảnh tiểu Li ngồi khóc, tôi càng áy náy tợn. Tôi nhủ bụng sáng mai gặp Tiểu Li tôi sẽ tìm cách làm hòa với nó.
Nhưng sáng hôm sau, tôi đợi hoài vẫn không thấy Tiểu Li qua rủ tôi đi học như thường lệ. Chắc nó nghỉ chơi với mình luôn rồi! Tôi buồn bã nghĩ thầm và lủi thủi ôm cặp đến trường.
Tiểu Li đang chơi nhảy dây trước cửa lớp. Thấy tôi, nó quay mặt ngó lơ chỗ khác. Thái độ lạnh nhạt của nó khiến tôi giận muốn ứa gan. Ý nghĩ làm lành với nó bỗng dưng bay biến đâu mất.
Khi vô học, tôi không thèm chấm chung lọ mực với Tiểu Li mà quay xuống bàn sau chấm chung với thằng Lợi sứt.
Lợi sứt hỏi tôi:
– Lọ mực mày đâu?
– Tao làm mất rồi.
– Sao mày không mua lọ khác?
– Tao chưa xin mẹ tao.
Lợi sứt lấy ngón tay cái bịt lọ mực lại. Nó ra điều kiện:
– Mày muốn chấm chung với tao, mày phải góp vào hai viên mực.
Tôi sờ túi:
– Tao đâu có mực sẵn ở đây!
– Thì ngày mai mày đem tới.
Tôi gật đầu:
– Ừ, ngày mai tao đem.
Nghe tôi hứa, Lợi sứt nhe răng cười và bỏ ngón tay ra. Từ lúc đó, tôi “liên minh” với Lợi sứt, cho Tiểu Li ra rìa. Suốt cả buổi học, tôi và Tiểu Li không hề nói chuyện với nhau. Thậm chí tôi không thèm nhìn nó.
Có lần, đang mải mê chép bài, cùi tay Tiểu Li vô tình chạm phải tay tôi. Tôi “hứ” một tiếng và vội vã rụt tay lại, y như chạm phải lửa. Tiểu Li không phản ứng gì, chỉ lặng lẽ chép bài. Tôi rất muốn nhìn nó một cái để xem vẻ mặt nó như thế nào nhưng tôi kềm lại được.
Khi ra về, thấy Tiểu Li đi thơ thẩn một mình, lòng tôi bỗng nao nao. Nhưng tôi nhất định không chịu làm lành, ai bảo nó đòi nghỉ chơi với tôi chi!
Tôi chạy qua mặt Tiểu Li, vừa chạy vừa hát “là lá la” ra cái điều được nghỉ chơi với nó tôi rất vui. Tôi vượt lên trước đi chung với Lợi sứt.
Thấy tôi trờ tới, Lợi sứt nhắc ngay:
– Ngày mai mày nhớ nghen?
– Nhớ gì?
– Hai viên mực.
– Ừ.
Tôi ngán ngẩm thở một hơi dài. Lợi sứt là thằng “trùm sò” nổi tiếng trong lớp tôi. Lúc nào nó cũng nghĩ đến chuyện “thu vén cá thân”. Đứa nào nhờ chuyện gì nó cũng làm nhưng phải trả công nó đàng hoàng. Nó ra giá nghiêm chỉnh. Chép bài giùm là hai viên bi. Giữ dép trong giờ chơi thì một viên. Chả là lúc ra chơi, tụi tôi thường khoái chạy nhảy chân đất, đi dép nó lướng vướng rất khó chịu nên không đứa nào mang. Nhưng để dép trong lớp lại thường bị mất nên tụi tôi phải nhờ Lợi sứt giữ. Lợi sứt “làm giàu” bằng cách đó. Cứ sau mỗi giờ chơi bao giờ túi nó cũng rủng rỉnh những bi là bi. Nhưng dù vậy, Lợi sứt vẫn không “phất” lên được. Bởi vì, hỨ cứ tích góp được kha khá, nó lại đem ra chơi và bị tụi tôi ăn lại hết. Thế là nó quay lại hành nghề giữ dép.
Lợi sứt là cái thằng như vậy nên tôi chẳng mê nó chút nào. Vì giận Tiểu Li tôi phải chơi với nó chứ thú thật đi chung với nó chán ơi là chán.
Trưa đó, tôi ăn cơm một cách uể oải.
Mẹ tôi hỏi:
– Con làm sao vậy? – lớp bị cô giáo phạt hả?
Tôi lắc đầu:
– Dạ, không có.
– Chứ sao có một chén cơm mà con nhơi cả buổi vậy?
Tôi trả lời bằng cách cắm cúi ăn lẹ. Tôi đâu có thể nói cho mẹ tôi biết nỗi buồn của tôi được. Mẹ tôi cười chết.
Ăn cơm trưa xong, tôi ra đứng thơ thẩn trước hiên, chốc chốc lại liếc qua nhà Tiểu Li một cái. Đứng một hồi, không thấy nó đâu, tôi buồn bã quay vào.
Một lát, tôi lại chạy ra.
Lần này, tôi thấy Tiểu Li ngồi trước hiên. Nó đang chơi ô quan một mình.
Bỗng nó quay đầu nhìn sang tôi. Vì bất ngờ, tôi không kịp quay mặt đi chỗ khác, đành trơ mắt ra, mặt đỏ bừng. Thấy tôi đứng dựa cột dòm sang, nó giật mình cúi gằm mặt xuống.
Đang nhìn trộm bị Tiểu Li bắt gặp, tôi thấy quê quê, tính bỏ vô nhà. Nhưng chân tôi lại không chịu tuân theo ý nghĩ của tôi, nó nhúc nhích mấy cái rồi đứng yên tại chỗ.
Lát sau, Tiểu Li lại dòm qua. Lần này nó không quay mặt đi mà lại nhe răng cười. Tự dưng tôi thấy hàm răng sún của nó có duyên quá chừng. Tôi liền cười theo.
Tiểu Li mừng lắm. Nó hỏi, mặt tươi tỉnh:
– Anh biết chơi ô quan không?
Tôi gật đầu:
– Biết.
Nó ngoắc:
– Qua đây chơi với em!
Không đợi nó “mời” đến lần thứ hai, tôi chạy vụt qua, lòng sung sướng vô kể. Sung sướng nhất là Tiểu Li chủ động làm hòa trước. Chứ tôi thì tôi… cóc thèm!
Tôi vừa ngồi xuống, Tiểu Li đã hỏi:
– Anh chơi bi thua hết rồi hả?
Tôi giật mình, lúng túng:
– Ừ, thua hết rồi!
Vừa đáp tôi vừa thấp thỏm nhìn Tiểu Li. Tưởng nó kêu tôi qua chơi, ai dè nó kêu qua để đòi nợ! Biết vậy tôi ở lì bên nhà đứng ôm cây cột chơi vui hơn!
Thấy tôi lộ vẻ hoảng hốt, Tiểu Li trấn an:
– Thua hết thì thôi! Em không nghỉ chơi với anh nữa đâu!
Tôi thở phào:
– Vậy mà tao cứ tưởng…
Tiểu Li chớp mắt:
– Nghỉ chơi với anh, em buồn lắm!
Tôi chép miệng:
– Tao cũng vậy! Nghỉ chơi với mày, tao thấy nhớ nhớ thế nào!
Nói xong, tự nhiên tôi bỗng đâm ngượng, bèn thò tay hốt nắm sỏi dưới đất, hắng giọng nói:
– Tao chơi trước nghen?
Không đợi Tiểu Li lên tiếng, tôi bắt đầu rải sỏi vào từng ô và lạ thay, từ giây phút đó tôi cảm thấy lòng mình vô cùng nhẹ nhõm hệt như tôi với Tiểu Li chưa hề giận nhau bao giờ.
– o O o –
Đúng như tôi nghĩ, sáng hôm sau vừa gặp tôi, Hải gầy đã nhăn nhở ca vọng cổ liền:
– Thư ơi… mày nhất định cấm không cho tao xuất đầu lộ diện… ơ… nhưng Hồng Hoa và Chiêu Minh nó cứ hiên ngang xuất diện lộ… ớ… ơ… đầu… tằng tằng tằng tăng tăng…
Đang buồn bã ê chề, tôi mặc cho nó ca, không thèm gây sự.
Thấy tôi phớt lờ, Hải gầy ngưng ngay chương trình “âm nhạc cải lương” và chuyển qua mục “hỏi đáp”. Nó mở đầu bằng một câu muôn thuở:
– Giờ sao mày?
Tôi nhăn mặt:
– Sao cái khỉ mốc! Nhiệm vụ chuyên môn của mày là giải đáp chứ không phải là đặt câu hỏi.
Hải gầy lập tức sửa bộ. Nó xốc lại quần áo:
– Rồi, mày hỏi đi, tao sẵn sàng giải đáp!
Tôi thở dài:
– Biết hỏi gì bây giờ! Hồng Hoa và Chiêu Minh tụi nó cứ đi theo tò tò như vậy thì thánh cũng chịu thua!
Mặt dù tôi không hỏi, Hải gầy vẫn cứ giải đáp. Nó phân tích:
– Vấn đề là ở Việt An chứ không phải ở Hồng Hoa và Chiêu Minh. Nếu Việt An không rủ thì tụi kia đâu có đi theo. Đúng không?
Tôi chép miệng thay cho câu trả lời. Sự phân tích xác đáng của Hải gầy càng làm tôi thêm chán nản. Có lẽ đúng như lời nó nói hôm trước, tình yêu của tôi là tình yêu bất lực. Tôi yêu nhưng không làm cho mình trở thành người được yêu. Nói cho công bằng thì tôi cũng có “làm”, làm đủ thứ, nhưng cóc có “trở thành” nổi!
Tôi nhìn Hải gầy bằng ánh mắt hoang mang và hỏi bằng chính câu hỏi của nó:
– Giờ sao mày?
Hải gầy khoát tay:
– Tiến lên chứ sao!
Tôi hỏi, giọng thiếu tin tưởng:
– Tiến lên bằng cách nào?
Hải gầy ngớ ra:
– Tao chưa nghĩ ra!
Tôi hừ mũi, giọng ỉu xìu:
Vậy mà cũng nói!
Hải gầy gãi đầu:
– Từ từ đã! chờ một chút! Hay là… hay là như thế này! Tạm thời mày phải xa Việt An một thời gian…
Tôi ngán ngẩm:
– Vậy là tiến xuống chứ tiến lên quái gì!
Hải gầy đặt tay lên vai tôi:
– Mày chưa hiểu ý tao. Đây là một vấn đề… triết học, phải có chuyên môn mới hiểu được! Đặc điểm của bọn con gái là mình theo đuổi ráo riết thì bọn nó coi thường nhưng ngược lại, hễ mình phớt lờ, bọn nó lại chạy theo mình, mình đuổi cũng không đi. Thế giới đã “nhất trí” vấn đề này rồi. Người Pháp có câu “Suit l’amour, l’amour fuit, fuit l’amour suit” nghĩa là “theo tình, tình trốn, trốn tình, tình theo”. Mày giả bộ xa nó một thời gian, nhất định nó sẽ tìm tới mày.
Trước một vấn đề “tầm cỡ thế giới” như vậy, ai mà chẳng xiêu lòng nghe theo. Tôi cũng vậy. Nhưng tôi thấy sao khó thực hiện quá.
– Xa nó là sao? – Tôi hỏi.
– Thì xa là xa chứ sao! Xa tức là không gần!
Tôi tái mặt:
– Chẳng lẽ mày xúi tao dọn nhà đi nơi khác?
– Bậy!
– Hay là nghỉ học?
Hải gầy phì cười:
– Không phải vậy! Mày vẫn đi học đàng hoàng. Chỉ cần mày lơ nó một thời gian, không có tiếp xúc, trò chuyện hay kẹo bánh gì nữa.
Tôi lờ mờ hiểu ra:
– Tức là tao phải “làm mặt lạnh”?
Hải gầy gật đầu:
– Ừ, thật lạnh vào! Như nước đá càng tốt!
Nghe lời Hải gầy, kể từ bữa đó, tôi bắt đầu “nghỉ chơi” với Việt An. Kể cả Hồng Hoa và Chiêu Minh, tôi đều phớt tỉnh Ăng-lê tất. Mỗi lần chạm trán tụi nó, tôi đều giữ vẻ mặt ở 35 độ dưới 0.
Tan học ra, tôi không còn đi về chung với Việt An nữa. Mặt cho tụi con gái vượt lên trước, tôi cố tình đi tụt lại phía sau với Hải gầy, ra cái điều ta đây “fuit l’amour” thật sự.
Ngồi trong lớp, tôi luôn luôn nhìn lên bảng hệt như một học sinh mẫu mực không tha thiết đến chuyện gì ngoài chuyện học. Có nhiều lúc tôi muốn liếc trộm Việt An một cái nhưng nhớ đến lời dặn dò nghiêm khắc của Hải gầy, tôi cố cưỡng lại sự thôi thúc mạnh mẽ đó. Hải gầy đã răn đe tôi ngay từ đầu:
– Nếu mày để Việt An và tụi bạn của nó bắt gặp mày nhìn trộm thì kế hoạch của tụi mình sẽ phá sản ngay lập tức. Tụi nó sẽ biết ngay là mày đang đóng kịch.
Trước lý lẽ của nó, tôi đành phải chôn chặt tình cảm vào đáy lòng và lúc nào cũng giữ cái đầu ngay ngắn trên cổ, không dám cựa quậy một tí ti.
Việc “chiêm ngưỡng” Việt An tôi tạm thời giao cho Hải gầy “phụ trách”. Nó sẽ quan sát và nghiên cứu những phản ứng xảy ra từ phía Việt An, giống như nhà khoa học nghiên cứu các phản ứng xảy ra trong phòng thí nghiệm vậy. Trên cơ sở đó, nó sẽ tìm ra những dấu hiệu thành công và hướng dẫn cho tôi các hành động tiếp theo.
“Chiến dịch băng giá” mới bước qua ngày thứ ba, Hải gầy đã hí hửng thông báo:
– Tốt lắm! Bước đầu như vậy là thuận lợi!
Tôi mừng rơn:
– Gì vậy?
– Bữa nay Việt An liếc mày hai cái.
– Phải liếc tao không?
– Liếc mày! Tao thấy rõ ràng. Như vậy là cá đã cắn câu.
Nó vỗ vai tôi:
– Mày cứ yên chí! Tao đã nói được là được! Chỉ cần lạnh thêm chút nữa!
Tôi vò đầu:
– Tao đã lạnh tanh rồi, còn lạnh sao được nữa?
Hải gầy nghiêm mặt:
– Lạnh nữa! Đừng bao giờ cười! Tao thấy mày còn cười.
Tôi phân bua:
– Tao có cười với tụi nó đâu.
– Cười với ai cũng không được! Mày phải chứng tỏ mình là người có bộ mặt không biết cười.
Tôi làm “người có bộ mặt không biết cười” được chừng hai ngày thì Hồng Hoa chặn đường tôi, hỏi:
– Có chuyện gì mà mấy bữa nay ông lầm lầm lì lì vậy?
Tôi đáp lấp lửng:
– Có chuyện gì đâu!
Hồng Hoa khăng khăng:
– Nhất định là có chuyện gì!
Tôi lắc đầu:
– Chẳng có chuyện gì hết! Tại mấy hôm nay tôi bận.
Hồng Hoa bĩu môi:
– Xạo.
– Thật. Tôi bận đủ thứ.
Hồng Hoa nhún vai:
– Tôi không tin. Ông chỉ làm bộ làm tịch tôi, nhưng ông chẳng lầm lì mãi được đâu!
Lời “tiên đoán” của nó khiến tôi giật thót nhưng tôi chưa kịp hỏi lại thì nó đã chạy mất.
Tôi đem những lời nhận định của Hồng Hoa nói lại với Hải gầy. Nhà chuyên môn hừ mũi:
– Mày đừng mắc lừa! Đó là đòn thăm dò của Việt An. Tụi nó chẳng biết gì về kế hoạch của mình đâu!
Tôi vẫn chưa hết bàng hoàng:
– Không biết sao Hồng Hoa bảo tao làm bộ làm tịch.
– Tụi nó chỉ đoán mò thôi. Việc Hồng Hoa chận đường mày hỏi dò chứng tỏ Việt An đã bắt đầu nao núng trước thái độ xa cách của mày. Cứ vậy mà làm!
Tôi “cứ vậy mà làm” thêm một tuần đã thấy sốt ruột.
Từ bữa đó đến nay, Việt An chẳng hề nhúc nhích mảy may. Tôi níu áo Hải gầy:
– Sao chẳng thấy Việt An động tịnh gì hết vậy mày?
Hải gầy trấn an:
– Đừng nóng ruột! Ông bà đã nói “dục tốc bất đạt”, chuyện tình cảm mà làm ào ào đâu có được!
Rồi dường như thấy tôi vẫn xụi lơ, chẳng tỏ vẻ gì tin tưởng vào lời dạy của ông bà, Hải gầy nói thêm:
– Khi nãy Việt An có liếc mày một cái.
Tôi thở ra:
– Hôm trước liếc hai cái, hôm nay còn có một, như vậy là sắp sửa outside rồi!
Hải gầy tìm mọi cách động viên tôi:
– Đừng bi quan! Chuyện tình yêu phải căn cứ vào “chất lượng” chứ không thể căn cứ vào “số lượng” được.
Mặc cho nó nói, tôi không giấu vẻ ngán ngẩm:
– Đi xem phim còn không ăn thua, liếc mấy cái nhằm nhò gì!
Hải gầy đặt tay lên vai tôi:
– Đừng nản chí, mày chỉ cần ráng thêm chừng mười ngày nữa thôi. Lúc đó, chắc chắn Việt An sẽ tìm gặp mày. Tao đã tính toán đâu vào đó rồi!
Nhưng lúc này, tôi không thèm quan tâm đến sự tính toán của nó. Tôi nhớ Việt An quá chừng và tôi không tin mười ngày nữa Việt An sẽ đến tìm tôi, “người có bộ mặt không biết cười”. Dường như từ ngày tôi lờ nó, nó cũng lờ luôn tôi. Hồng Hoa sau lần trò chuyện nọ cũng chẳng thấy hỏi thăm tôi thêm một lần nào nữa.
Tôi đã bắt đầu nghi ngờ cái phương châm “trốn tình, tình theo” đầy hứa hẹn kia. Tôi có cảm giác nếu như tôi tiếp tục “trốn tình” đến già, tình cũng chẳng thèm theo tôi lấy một bước.
Nghĩ lợi nghĩ hại một hồi, tôi quyết định thà “theo tình, tình trốn” còn hơn “trốn tình mà tình không theo”. Mình theo nó tò tò, nó có trốn, mình cũng còn biết đường mà… theo tiếp, chứ mình trốn nó, nó chơi ác nó trốn lại mình, lúc đó mình hối hận quay lại thì đã muộn.
Định bụng như vậy, hôm sau vô lớp, tôi chẳng màng đóng vai người hùng mặt lạnh nữa. Chốc chốc tôi lại nghiêng đầu liếc sang chỗ Việt An. Lâu nay bắt chước Tam Tạng đóng vai chân tu khổ hạnh, thấy con gái không thèm liếc ngang liếc dọc, bây giờ nhìn trộm Việt An mấy cái, tim tôi đập thình thịch. Ác một nỗi, Việt An chẳng hề nhìn lại tôi lấy một lần. Mặt nó lạnh như tiền, còn lạnh gấp mấy tôi.
Để “cứu một bàn thua trông thấy”, trưa đó tôi đạp xe chạy lòng vòng ghé mấy hiệu sách. Tôi biết Việt An rất thích đọc sách, nhất là sách của Aimatov. Tôi rảo tới rảo lui một hồi và cuối cùng khi thấy cuốn “Một ngày dài hơn thế kỷ”, tôi chộp liền.
Ra khỏi hiệu sách, tôi chạy như bay tới nhà Việt An.
– Anh đi đâu đó? – Thấy tôi đột ngột xuất hiện, Việt An tỏ vẻ ngạc nhiên.
Tôi đáp, vọng không được tự nhiên lắm:
– Có cuốn sách hay, tôi đem đến cho Việt An đọc.
Nhìn cuốn sách dày cộm trên tay tôi, Việt An hỏi:
– Anh đọc chưa mà biết hay?
Tôi đỏ mặt:
– Chưa.
– Chưa mà biết hay!
Tôi đứng chết trân như bị Tôn Hành Giả làm phép định thân. Thấy vậy, Việt An mỉm cười độ lượng:
– Cuốn gì vậy?
Như được giải phép, tôi vội vã chìa cuốn sách ra:
– “Một ngày dài hơn thế kỷ”. Cũng của Avimatov.
Tôi nhấn mạnh chữ Avimatov bằng một giọng hí hửng.
Không để ý đến vẻ “nịnh thần” của tôi, Việt An nheo mắt:
– Như vậy anh không thèm nói chuyện với tôi mấy thế kỷ rồi?
Tôi thóp bụng lại như tránh một mũi kiếm vô hình, miệng lắp bắp:
– Đâu phải là… không thèm! Tại tôi bận.
Việt An nhìn tôi với vẻ thiếu tin tưởng. Nó nói thẳng:
– Tôi biết anh nói dối.
Ánh mắt của nó khiến tôi đâm mất bình tĩnh. Tôi ấp úng:
– Tại tôi bắt chước người Pháp.
Việt An trố mắt:
– Bắt chước người Pháp là sao?
Suýt một chút nữa là tôi buột miệng khai huỵch toẹt cái “chiến dịch băng giá” của quân sư Hải gầy, cả cái phương châm “suit l’amour, l’amour fuit, fuit l’amour, l’amour suit” phản chủ kia. May sao, đến phút chót tôi định thần lại kịp và nói trớ đi:
– Người Pháp họ hay bận lắm!
Việt An phì cười:
– Tưởng sao! Bận mà cũng bắt chước! Anh thật là lãng xẹt!
Chẳng thà để nó chê tôi “lãng xẹt” còn hơn để nó biết kế hoạch “ám muội” của tôi. Nghĩ vậy, tôi nhe răng cười theo.
Sáng hôm sau, thấy Việt An đứng nói chuyện với tôi trong giờ chơi, Hải gầy lên giọng hách dịch:
– Mày thấy chưa?
– Thấy gì?
– Còn hỏi nữa! Thấy kết quả của phương pháp “lạnh lùng” chứ thấy gì!
Tôi chưa kịp đáp, nó đã cười hà hà:
– Tao đã nói ngay từ đầu mà! Theo tình thì tình trốn, trốn tình thì tình theo, thế giới đã tổng kết rồi!
– Nhưng…
Hải gầy phẩy tay:
– Còn nhưng nhị gì nữa! Bữa nay Việt An đã phải tới tìm mày trò chuyện chứng tỏ là…
Tôi nhăn nhó:
– Chứng tỏ cái khỉ mốc! Sở dĩ bữa nay nó chịu nói chuyện với tao bởi vì hôm qua tao đến nhà nó.
Hải gầy vò đầu:
– Trời ơi, thế này thì hỏng bét!
Sau khi la trời, nó nhìn tôi bằng ánh mắt như muốn ăn tươi nuốt sống kẻ đối diện:
– Mày mò tới nhà nó chi vậy?
– Tao đầu hàng! – Tôi đành thú thật.
Hải gầy lắc đầu và thở một hơi dài thườn thượt hệt như Dindenault đang tuyệt vọng nhìn đàn cừu của mình lao đầu vào chỗ chết.
Còn Việt An chính là thủ phạm Panurge lừng danh.
Phần 7
Sáng hôm sau, tôi vừa ló mặt vô lớp, Lợi sứt đã hỏi:
– Hai viên mực đâu?
Tôi xòe tay:
– Không có.
– Sao vậy?
Tôi giải thích:
– Tao không chấm mực của mày nữa.
Lợi sứt lừ mắt:
– Không chấm nữa mày cũng phải trả hai viên mực cho tao. Hôm qua mày đã chấm rồi.
Tôi “xì” một tiếng:
– Chấm có chút xíu mà cũng đòi.
Lợi sứt nhất định không chịu nhượng bộ:
– Chấm chút xíu cũng hao mực vậy!
Tiểu Li đứng cạnh chen vô:
– Đồ “trùm sò”!
Lợi sứt đỏ mặt:
– Tao “trùm” kệ tao! Đồ… đồ lẻo mép!
Mặc dù nổi nóng nhưng thấy Tiểu Li bênh tôi, Lợi sứt cũng chịu “xuống nước”. Nó quay sang tôi:
– Thôi, mày trả tao một viên cũng được!
Tôi mím môi:
– Tao không trả.
Lập tức Lợi sứt xông vào túm áo tôi:
– Mày định quỵt tao phải không?
– Ồ… à… muốn chơi nhau hả?
Vừa nói, tôi vừa ném cặp xách lên bàn và xắn tay áo lên.
Thấy tôi và Lợi sứt chuẩn bị đánh nhau, Tiểu Li hoảng hồn. Nó xô tôi ra, miệng năn nỉ:
– Đừng, đừng, anh đừng đánh nhau! Em sợ lắm! Để ngày mai em đem viên mực trả cho nó.
Tôi xẳng giọng:
– Không có trả gì hết! Để coi nó làm gì được tao! Mày dang ra đi!
Nhưng mặc cho tôi hét, Tiểu Li không chịu buông. Nó nắm chặt hai cánh tay tôi.
Đang hăng máu, tôi gạt mạnh Tiểu Li ra.
Cái hất tay thô bạo của tôi khiến Tiểu Li té chổng gọng. Trước khi nằm thẳng cẳng dưới đất, trán nó đã kịp đập vô cạnh bàn, máu chảy tèm lem.
Trước “án mạng” bất ngờ đó, tôi và Lợi sứt xanh mét mặt mày. Hai đứa quên cả đánh nhau, cùng nhảy bổ lại đỡ Tiểu Li dậy.
Tôi lấy tay chùi máu trên trán Tiểu Li, miệng lắp bắp:
– Mày… mày có thấy đau không?
Mặt Tiểu Li còn lộ vẻ bàng hoàng. Dường như nó chưa kịp hiểu chuyện gì đã xảy ra. Nó đáp:
– Đau sơ sơ.
Tôi lại hỏi, giọng lo âu:
– Mày thấy trong người… có sao không?
Tôi cứ sợ nó chết bất tử. Tiểu Li lắc đâu:
– Em chẳng thấy sao hết!
Bất thần nó đưa tay lên sờ trán. Thấy máu dính trên các ngón tay, Tiểu Li hốt hoảng:
– Chết rồi! Bể đầu em rồi!
Và nó sợ hãi òa khóc.
Tôi vội vàng nói:
– Không phải bể đầu đâu! Chỉ trầy da chút xíu!
Tiểu Li mếu máo:
– Trầy da mà máu chảy nhiều chừng này?
Lúc này tụi bạn trong lớp, kể cả mấy đứa lớp khác, đã xúm đen xúm đỏ chung quanh.
Một đứa nói:
– Chết thằng Thư rồi! Nó đánh con Tiểu Li bể “gáo dừa” rồi!
Tôi khịt mũi ngồi im. Gặp lúc khác, tôi đã ngoác mồm ra cãi. Tôi có đánh Tiểu Li hồi nào đâu.
Tụi bạn tiếp tục bàn tán. Một giọng độc địa vang lên:
– Nó sẽ bị đuổi học.
Có tiếng cãi:
– Không có đuổi học đâu! Nó chỉ bị gọi lên phòng Ban giám hiệu thôi!
Bỏ ngoài tai những tiếng xì xào, tôi và Lợi sứt nâng Tiểu Li đứng dậy.
Đúng lúc đó, điều tôi lo lắng đã xảy ra. Cô giáo bước vào lớp.
Thấy học trò túm tụm lại một chỗ, cô hỏi:
– Gì vậy các em?
Trong khi tim tôi thót lại thì những đứa mau miệng đã tranh nhau kể tội tôi.
Cô giáo bước lại bên Tiểu Li. Sau khi quan sát vết thương, cô vội vã kêu hai đứa con gái dìu Tiểu Li lên phòng y tế.
Còn tôi, lẽ dĩ nhiên, phải đưa đầu chịu trận. Cả Lợi sứt cũng lãnh hậu quả. Nhưng tụi tôi không bị đuổi học, cũng không phải lên văn phòng ngồi run như cầy sấy trước thầy hiệu trưởng, thật hên! Tôi và Lợi sứt chỉ bị phạt đứng tại chỗ cho đến khi nào có tiếng trống ra chơi.
Một lát sau, Tiểu Li xuất hiện. Nó lặng lẽ bước vào chỗ ngồi với miếng băng trắng toát đính nơi góc trán.
Thấy nó sống sót trở về, mặc dù đang bị phạt, lòng tôi nhẹ hẳn đi.
Trên đường về, tôi dặn Tiểu Li:
– Mẹ mày hỏi, mày đừng nói là tại tao nghen!
– Em không nói đâu! Em bảo là em bị té.
Tôi vẫn chưa yên tâm:
– Tự mày té hả?
Tiểu Li gật đầu:
– Tự em té. Không có ai xô hết.
Tôi thở phào:
– Ừ, mày bảo là mày vấp gốc cây hay vấp… viên gạch gì đó! Nếu mày khai tao ra, mẹ mày “méc” với mẹ tao là tao nhừ đòn.
Mọi chuyện tưởng là không có gì, không ngờ tối đó Tiểu Li lên cơn sốt. Sáng hôm sau, nó phải nghỉ học.
Đợi hoài không thấy nó qua rủ, tôi chạy qua nhà nó. Thấy tôi, mẹ nó hỏi:
– Hôm qua, Tiểu Li té sao vậy cháu?
Tôi vọt miệng:
– Nó bị đập đầu vô cạnh bàn.
Mẹ nó ngạc nhiên:
– Sao nó bảo nó va đầu vào cục gạch?
Tôi giật mình, ấp úng:
– Cháu… cháu cũng chẳng biết nữa. Cháu không có mặt ở đó, cháu chỉ nghe tụi bạn nói lại. Chắc là tại cục gạch. – trường cháu… gạch nhiều lắm!
Sợ mẹ Tiểu Li hỏi nữa, tôi vội vàng hỏi trước:
– Tiểu Li đầu rồi bác?
– Nó nằm trong nhà. Nó bị sốt. Chắc là do vết thương.
Tôi bước vào nhà. Tiểu Li nằm trên đi-văng rên hừ hừ. Tôi lại gần đặt tay lên trán nó. Trán nó hâm hấp. Tiểu Li mở mắt ra. Thấy tôi đứng cạnh, nó hỏi:
– Anh chưa đi học hả?
Tôi đáp, giọng bùi ngùi:
– Chưa. Đợi hoài không thấy mày, tao chạy qua đây.
Tiểu Li chớp mắt:
– Bửa nay em nghỉ học, anh đi một mình hén!
– Ừ, tao đi một mình.
Thấy tôi đứng loay hoay hoài, Tiểu Li giục:
– Anh đi học đi! Coi chừng vô lớp tr bị cô giáo phạt.
Tôi chẳng muốn rời Tiểu Li chút nào. Nhưng tôi phải đến lớp. Biết không thể nấn ná lâu được, tôi xốc cặp, nói:
– Mày cứ nằm nghỉ đi, lát trưa tao qua chép bài giùm mày cho.
Nói xong, tôi vọt thẳng ra cửa, không dám ngoảnh đầu lại.
Buổi trưa, vừa về đến nhà, ăn qua loa vài chén cơm, tôi chạy qua thăm Tiểu Li.