Gợi ý:
I.Mở Bài:
Thơ tình là mảng thơ đặc sắc của Xuân Quỳnh. Ở đó tuổi trẻ có thể soi thấy những cung bậc tình cảm của lòng người đang yêu và soi thấy mảnh tâm hồn riêng của một nhà thơ nữ.
Thơ tình Xuân Quỳnh nhiều bài hay , trong đo được yêu thích hơn cả vẫn là Thuyền và biển và Sóng. Đặc biệt trong bài Sóng, nhà thơ đã mượn một hình tượng rất đạt để diễn tả tình yêu một cách tập trung ý nhị vừa sáng rõ, vừa độc đáo: Hình tượng Sóng.
II.Thân bài: Phân tích
1. Khổ thơ 1 + 2: Hành trình của con sóng từ dòng sông ra biển cả – trạng thái tâm lý của người phụ nữ đang yêu:
* Khổ thơ thứ nhất :
“ Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể “
– Nhân vật trữ tình kể chuyện về sóng biển. Câu thơ có những cặp từ trái nghĩa : “ dữ dội – dịu êm”
“ ồn ào – lặng lẽ”
Đây là các cặp từ gợi tả trạng thái con sóng bất ổn. Gợi âm thanh của tiếng sóng vỗ bờ, âm thanh của sóng, của gió. Những cặp từ trái nghĩa đi liền nhau trong một câu thơ có tác dụng tả nhịp điệu con sóng khi trào lên lúc lại lắng xuống, nhịp nhàng.
Nhịp điệu của câu thơ , của sóng biển, dễ gợi cho ta những liên tưởng về trạng thái tâm lý khác thường của người phụ nữ khi yêu đầy biến động và phức tạp : khi thì sôi nổi tha thiết, chân thành, mãnh liệt , lúc lại trầm tư sâu lắng. Đó là cá tính không thuần nhất. Nhưng dù có thế nào thì cuối cùng vẫn trở về với cái riêng của phụ nữ. Đó là vẻ đẹp “ dịu êm, lặng lẽ” Xuân Quỳnh đã có những phát hiện rất đặc biệt về sóng. Sóng trong thơ Xuân Diệu là anh thì sóng trong thơ Xuân Quỳnh là em – cái tôi trữ tình của nhà thơ – trái tim người phụ nữ đang yêu đầy biến động.
Hai câu thơ tiếp: có hình ảnh: sông – sóng – bể gợi hành trình của sóng từ dòng sông ra biển cả. Qui luật của tự nhiên đã được Xuân Quỳnh khám phá từ hình tượng sóng. Sóng của dòng sông không chấp nhận không gian nhỏ hẹp. Trăm sông sẽ dồn về biển cả giống như tình yêu của con người không chấp nhận sự hẹp hòi ích kỉ, luôn vươn tới cái cao cả trong sáng hơn. Như vậy : ngay từ khổ thơ mở đầu của bài thơ đã giúp ta có những liên tưởng về tình yêu qua đặc trưng của sóng biển. Sóng được miêu tả đi liền với trạng thái tâm lý của người phụ nữ khi yêu.
* Khổ thơ thứ hai: Nhịp điệu câu thơ ngắn, nhịp nhàng, giọng thơ tâm tình , hồi tưởng, những cặp từ trái nghĩa cùng với thán từ “ ôi” vừa có ý nghĩa khẳng định sự trường tồn của sóng với muôn đời :
“ Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
Cái tôi trữ tình đã tách ra khỏi hình tượng sóng để so sánh liên tưởng đồng nhất sóng với tình yêu, khát vọng tình yêu của nhân loại là trường tồn, vĩnh hằng. Đặc biệt là khát vọng tình yêu của tuổi trẻ. Đó cũng là khát vọng được sống, khát vọng được yêu. Ngôn ngữ thơ mang sắc thái khẳng định qua các từ “ ngày xưa” , “ ngày sau” – “ vẫn thế”.
2. Khổ thơ 3, 4, 5, 6 ,7 : Cái tôi trữ tình “ trước muôn trùng sóng bể”
a. Khổ thơ 3 + 4: “ Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên ?
Sóng bắt đàu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu ?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”
Những câu hỏi diễn tả sự băn khoăn trăn trở của “ em” đặc biệt điệp từ : “ Em nghĩ”. Đây là điệp từ thể hiện trạng thái tâm lý của cái tôi trữ tình. Điều này chúng ta thường gặp trong thơ Xuân Quỳnh:
“ Em nghĩ rất nhiều về nhau
Sau lời cuối cùng bài hát
Mây trắng trời xanh gió mát
Một ngôi nhà giữa vườn xanh”
( Không bao giờ là cuối )
Còn trong bài “ Sóng” “ Em nghĩ” về tình yêu của anh và em, về biển và sóng. Em đang suy nghĩ trước biển bao la tự vấn lòng mình bằng những câu hỏi từ ngàn xưa về cội nguồn của sóng. Em và sóng luc này phân đôi, em băn khoăn hỏi và tự trả lời: “ sóng bắt đầu từ gió”, có gió mới có sóng. Câu trả lời thật hồn nhiên đã giãi bày chân thật lòng mình. Sau đó “Em” lại hỏi về cội nguồn của gió, nhưng bỏ lửng để nói chuyện tình yêu cho tự nhiên, đây là một nét bút khéo léo thường thấy trong thơ Xuân Quỳnh.
– Cội nguồn của sóng // cội nguồn của tình yêu và bỏ lửng.
– Đến đây sóng và em sóng đôi. Gió là chuyện của vũ trụ, siêu hình, cũng giống tình yêu đầy bí mật : “ Tình yêu là điều con người không thể hiểu nổi”, là trạng thái tình cảm đặc biệt . Có lúc thi sĩ đã thú nhận :
“ Em cũng không biêt nữa
Khi nào ta yêu nhau”
Câu thơ là một lời thú nhận thành thực với lòng mình, với tình yêu. Đúng! Bản chất của tình yêu là không lý giải được ( không biết bát đàu từ đâu) Xuân Quỳnh đã tự tìm lời giải đáp cho câu hỏi về cội nguồn tình yêu bằng sự thành thật hồn nhiên hóm hỉnh và rất có duyên.
b. Khổ thơ thứ 5:
“ Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Đây là khổ thơ có số lượng câu thơ nhiều nhất trong bài, 6 câu thơ đứng giữa bài thơ, như một đợt sóng lòng cồn lên cao nhất từ tâm điểm của bào thơ. 4 câu đầu cái tôi trữ tình nhập vào sóng để giãi bày tâm sự. Hai câu sau cái tôi trữ tình tách ra để bày tỏ lòng mình , nhập vào rồi tách ra như vậy tuy hai mà vẫn là một trong một dòng cảm xúc tuôn chảy.
– Âm điệu cùng nghệ thuật điệp từ, điệp câu đã miêu tả con sóng ở những tầng bậc khác nhau trong không gian , trong thời gian. Con sóng trên mặt nước là con sóng dễ nhận thấy. Con sóng dưới lòng sâu là sóng ngầm, sóng lòng. Và con sóng đã được nhân hóa. Mạch cảm xúc thơ vẫn từ hình tượng sóng – con sóng trong không gian biển cả . Nhịp sóng như vang lên trong từng câu thơ. Con sóng cứ trở đi trở lại như một điệp khúc. Lời thơ tràn ngập, dào dạt tiếng sóng, sóng biển và sóng lòng giăng mắc. Xuân Quỳnh ngẫm về sóng là để nghĩ về mình, hiểu tình yêu của mình.
– Con sóng có tâm trạng vơi đầy thương nhớ. Sóng nhớ bờ. Bờ là nơi đến của sóng. Sóng và em như nhập vào nhau là một để diễn tả nỗi nhớ. Sóng nhớ bờ như em nhớ anh. Nhà thơ Xuân Diệu đã khẳng định nỗi nhớ của mình khi xa cách người thương:
“ Tả mây tả cát sao bằng
Tả anh thương nhớ lòng giăng vạn trùng”
( Đêm trăng Hắc Hải)
Xuân Quỳnh cũng vậy , bà đã nhập vào sóng để nói lên nỗi nhớ của mình:
“ Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
– Sáu câu thơ trong một khổ thơ thì có hai câu người phụ nữ tự nói lên tình yêu của mình đối với người mình yêu. Trên mượn sóng để nói hộ mình. Đến đây, tình yêu mãnh liệt đã thôi thúc trái tim tự hát thành lời. Có tăng thêm ngôn ngữ, bài hát có tăng thêm nốt nhạc điều ấy cũng là lẽ thường tình vì nỗi nhớ trong tình yêu không ngôn ngữ nào có thể diễn tả hết được. Nhớ là biểu hiện của tình yêu, là thước đo của tình yêu. Người phụ nữ trong bài thơ nhớ đến trăn trở, khắc khoải, day dứt không nguôi triền miên theo thời gian. Trong giấc mơ vẫn còn niềm thao thức. Nỗi nhớ da diết thường trực vô tận trong lòng. Câu thơ không có một từ “ yêu” mà vẫn toát lên một tình yêu cháy bỏng dạt dào. Đặc biệt không phải là em nhớ, mà là “ lòng em nhớ” thế mới là sâu sắc.
– Hai câu thơ là lời tự hát của một trái tim phụ nữ về tình yêu với người mình yêu. Tình yêu của người phụ nữ trong bài thơ thật mãnh liệt , chủ động bày tỏ tình cảm của mình. Đó là vẻ đẹp của sự bạo dạn, mới mẻ, đắm say. Trái tim của người phụ nữ không cần úp mở nữa. Nó đã đòi nói thật.
c. Khổ thơ 6 + 7:
“ Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương”
– Xuân Quỳnh diễn tả thêm tình yêu của mình cho trọn vẹn. Hình như thể hiện tình yêu bằng nỗi nhớ vẫn chưa yên tâm, mà phải diễn đạt sao đây cho đủ, cho đến tận cùng nỗi nhớ vì thế hai khổ thơ này xuất hiện.
– Khổ thơ có những cặp từ trái nghĩa : “ dẫu xuôi, dẫu ngược” để diễn tả cảnh ngộ của người phụ nữ. Nhưng đọc lên nghe có vẻ không xuôi chiều. Dân gian hay nói: “ xuôi nam ngược bắc”, Xuân Quỳnh đã diễn đạt ngược lại để khẳng định: dù cuộc đời, trời đất có thay đổi, có quay cuồng, đảo lộn, thay phương đổi hướng thì tình yêu của em cũng chỉ dành cho một người là anh mà thôi. Đến đây trong lời thơ không còn em và sóng, chỉ còn em và anh – với tình yêu:
“ Chỉ còn em và anh
Cùng tình yêu ở lại”
( Thơ tình cuối mùa thu)
Câu thơ giống như một lời thề. Thề rằng dù em phải ngược xuôi vất vả gian truân, lên thác xuống ghềnh cũng chỉ có anh là người duy nhất. Câu thơ giản dị mà sâu sắc hơn tất cả mọi lời vàng đá. Không gian thì có bốn phương tám hướng, nhưng tình yêu chỉ chấp nhận một phương. Có lẽ đây cũng là quan niệm về tình yêu của nữ sĩ Xuân Quỳnh: tình yêu phải gắn với lòng chung thủy. Tình yêu không đơn thuần là tình yêu mà tình yêu đi liền với cái tốt, cái đẹp, cái cao cả là nỗi nhớ mãnh liệt, lòng thủy chung tuyệt đối. Khổ thơ toát lên vẻ đẹp của tình yêu đầy nữ tính kín đáo, dịu dàng, táo bạo, mãnh liệt bởi nhiều khát khao và đam mê nhưng vẫn giữ được nét đẹp truyền thống của người phụ nữ phương Đông và người phụ nữ Việt Nam yêu tha thiết, chân thành và luôn hướng tới hôn nhân. Những câu thơ như được vắt ra từ chính cuộc đời Xuân Quỳnh đầy đau thương, mất mát, hụt hẫng về tình cảm.
– Khổ thơ 5 và 6 hình tượng sóng và em sóng đôi hòa làm một soi chiếu vào nhau cộng hưởng. Sóng chính là nỗi lòng của em và em là hiện thân của sóng. Sóng và em đồng hiện. Khổ thơ thứ 7 nhà thơ lại quay trở về với hình tượng sóng. Dù gió xô bão dạt tới phương nào đi nữa cuối cùng sóng vẫn về với bờ. Đó là hiện thực, là qui luật:
“ Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
Hình như khẳng định tình yêu chung thủy e chưa đủ, nên cảm xúc thơ lúc này như lắng xuống, nhập vào sóng để khẳng định thêm vẻ đẹp tình yêu của mình: có cách trở – vẫn thủy chung trọn vẹn. Như vậy hành trình tình yêu của Xuân Quỳnh một người bạn đồng hành là sóng, sóng góp phần nói thêm, bồi đắp thêm những cảm xúc thương yêu cháy bỏng của nữ sĩ.
– Hai khổ thơ có những câu thơ gần nghĩa nhau, bổ sung, bồi đắp cho nhau để khẳng định một tình yêu bền vững: “ Dẫu xuôi về phương bắc”; “ Dẫu ngược về phương nam” Và “ Dù muôn vàn cách trở” thì em vẫn “ hướng về anh một phương”, sóng thì “ con nào chẳng tới bờ”.
Tình yêu vượt lên trên mọi không gian, thời gian, mọi cách trở, mất còn để đi đến đích. Đúng như có một lần Xuân Quỳnh đã khẳng định:
“ Sau sông sau biển sau thuyền
Sau những chân trời bát ngát
Sau bao điều cay cực nhất
Anh là hạnh phúc đời em”
( Không bao giờ là cuối)
Các khổ thơ 3 , 4, 5, 6 , 7 tập trung thể hiện vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ đang yêu qua hình tượng sóng:
+ Sóng: – Nỗi nhớ trong tình yêu da diết nồng nàn.
– Tình yêu chung thủy hướng tới hạnh phúc trọn vẹn.
– Tình yêu vượt qua mọi khó khăn trắc trở của cuộc đời.
Các khổ thơ tập trung diễn tả vẻ đẹp của một tâm hồn phụ nữ chân thật giãi bày lòng mình, yêu tha thiết nhưng vẫn giữ được nét đẹp truyền thống.
3. Khổ thơ 8 + 9: những lo âu day dứt và khát vọng tình yêu.
+ Khổ thơ thứ 8:
“ Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
– Các cặp từ thường có trong các vế của câu ghép: tuy – vẫn, dẫu ¬– vẫn mang ý nghĩa khẳng định cuộc đời tuy dài, nhưng vẫn là hữu hạn. Biển dẫu rộng thật, nhưng biển vẫn có bờ. Thời gian chảy trôi, mây vẫn bay về xa tắp vô tận. Câu thơ có sự âu lo trăn trở mang màu sắc triết lý về khái niệm thời gian và năm tháng. Xuân Quỳnh lo âu vì cuộc đời còn ở phía trước , đời người là hữu hạn. Hơn nữa qua nhiều năm tháng đầy biến động của cuộc đời, đã nếm trải ngọt ngào và cay đắng của hạnh phúc thì ở Xuân Quỳnh lo âu về tình yêu đã thành nỗi ám ảnh xót xa:
“ Lời yêu mỏng manh như màu khói
Ai biết tình anh có đổi thay”
– Khổ thơ kết của bài thơ:
“ Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
Tự hỏi “ làm sao”, tự vấn lòng mình thể hiện một ước muốn, một khát vọng về tình yêu vô cùng táo bạo và mãnh liệt. Vì sao Xuân Quỳnh lại khát vọng ? Phải chăng bà yêu tha thiết nồng nàn và lo âu ? nhân vật trữ tình muốn được “ tan ra” thành sóng. Động từ tan ra diễn tả một trạng thái mạnh. Sự hóa thân, quên mình trong tình yêu vào thiên nhiên vĩnh cửu để tồn tại mãi mãi, muốn thành trăm con sóng nhỏ để được sống mãi, yêu mãi. Đó cũng là khát vọng được hiến dâng, được hi sinh vì tình yêu mà chỉ có những người yêu thực sự mới làm được như vậy. ta hãy chú ý đến từ chỉ thời gian là “ ngàn năm” và “ biển lớn tình yêu”. Chuyện tình yêu và hạnh phúc ở đời thường là chuyện trăm năm “ trăm năm giàu nỗi hẹn hò”, “ trăm năm bến nước tình tình- trăm năm là nghĩa là tình mình ta”, với Xuân Quỳnh chuyện tình yêu phải là chuyện của “ ngàn năm”, biển phải là “ biển lớn tình yêu” vĩnh hằng và bất tử. Động từ “ tan ra” trong khổ thơ là đỉnh điểm của cảm xúc, của nỗi nhớ, của lòng chung thủy và đức hi sinh một cách trọn vẹn.
– Trước biển Xuân Quỳnh còn khơi dậy được những khát khao mới mẻ, được còn mãi một tình yêu lớn. Khát vọng tình yêu cũng là khát vọng sống mãnh liệt đủ đầy da diết:
“ Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có
Vẫn ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”
( Tự hát)
III. Kết Luận:
Sóng không chỉ là thơ mà còn là những gì tinh tế nhất, huyền diệu nhất của một tâm hồn phụ nữ, một trái tim nhạy cảm luôn luôn khao khát yêu thương. Bài thơ giàu ý nghĩa nhân sinh: giáo dục con người cái đẹp cái tốt, cái cao quí. Bài thơ còn là quan niệm đúng đắn của nữ sĩ về tình yêu chân chính phù hợp với truyền thống dân tộc. Sóng là một bài thơ tình yêu đặc sắc.