I – Gợi dẫn
1. Tác giả
Vương Duy (701 – 761) là một trong những nhà thơ nổi tiếng đời Đường, tự là Ma Cật, người đất Kì, Thái Nguyên (nay thuộc tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc). Năm 21 tuổi ông đỗ tiến sĩ, ra làm quan, nhưng có một thời gian dài ông sống như người ẩn dật, “mỗi lần bãi triều về là đốt hương ngồi một mình, đọc kinh niệm Phật”. Thơ Vương Duy thuộc loại thơ điền viên sơn thuỷ. Cảnh sắc thiên nhiên trong thơ ông mang tính chất thanh nhàn, yên tĩnh, giàu chất hoạ, mỗi bài thơ là một bức hoạ.
2. Tác phẩm
Điểu minh giản là bài thơ khá tiêu biểu cho phong cách thơ Vương Duy : cảnh vật thiên nhiên vô cùng yên tĩnh, thơ giàu chất hoạ, âm thanh lại rất sinh động. Bài thơ vẽ nên một bức tranh thiên nhiên trong sáng nhưng gợi buồn.
3. Cách đọc
Đọc bản phiên âm gieo vần theo luật thơ Đường, ngắt nhịp 2/3 ; bản dịch thơ thứ nhất theo cách gieo vần thơ lục bát, nhịp 2/4, 4/4, 2/4, 4/4 ; bản dịch thơ thứ hai ngắt nhịp 2/3 và gieo vần cách (các chữ cuối câu chẵn vần với nhau).
II – Kiến thức cơ bản
Vương Duy và Mạnh Hạo Nhiên là hai nhà thơ làm nên vị trí của loại thơ điền viên (đề tài chủ yếu là cuộc sống ẩn dật nơi thôn dã) đời Đường. Vương Duy là một trong những nhà thơ lớn của văn học thời Thịnh Đường, giai đoạn thơ Đường phát triển đến tột đỉnh. Đời nhà Đường cũng là thời kì mà “cả Khổng cả Lão cả Phật đều được coi trọng”. Đặc biệt đạo Phật rất được chú ý phát triển. Vì vậy mà trong thơ của phái điền viên, người ta thấy thấp thoáng cái yên tĩnh và thanh tịnh của chốn Thiền môn.
Khe chim kêu là một bức tranh thanh tĩnh. Người và cảnh dường như hoà chung một niềm tâm tư :
Nhân nhàn quế hoa lạc
Dạ tĩnh xuân sơn không.
(Người nhàn, hoa quế rụng
Đêm yên tĩnh, non xuân vắng không)
Người sống trong cảnh nhàn hạ, đó là cuộc sống của người ẩn sĩ. Hoa quế là loài hoa rất nhỏ, nên hoa rụng không gây nên sự thanh động nào cả. Cảnh vật vẫn rất nhẹ nhàng và thanh cao. Một khung cảnh thiên nhiên trữ tình, một bức tranh sơn thuỷ đáng yêu. Cảnh và người thật hoà hợp, người thì nhàn nhã, cảnh thì thanh tao, những bông hoa li ti nhẹ rơi càng làm tăng thêm vẻ tĩnh mịch. Đêm đã yên tĩnh, đêm trên núi vắng vào mùa xuân lại càng tĩnh lặng hơn. Một chữ “tĩnh” và một chữ “không” cộng hưởng để làm bật lên sự tịch mịch của đêm trên núi vắng. Không gian ở đây là núi chứ không phải “đồi”. Ngô Tất Tố dịch câu này chưa sát nghĩa. “Tĩnh” cũng khác với “vắng tanh”. Cảnh vật ở hai câu đầu thiên về vẻ tĩnh và tối. Một đêm mùa xuân yên tĩnh và thanh tao.
Nhưng đến hai câu sau, không gian đột ngột có sự thay đổi, tưởng như trái ngược với cảnh ở hai câu trên. Đó là sự xuất hiện của âm thanh và ánh sáng. ánh sáng của trăng xuân đã lên và âm thanh của tiếng chim núi giật mình. Tưởng như cảnh sáng hơn và động hơn, nhưng thực ra ánh sáng và âm thanh chỉ đủ sức làm nổi bật hơn sự tĩnh lặng của đêm trên núi vắng. Trăng làm tăng vẻ huyền ảo, tiếng chim “thỉnh thoảng cất tiếng kêu trong khe suối” càng làm rõ hơn cái tĩnh của đêm. Một bức tranh sơn thuỷ hữu tình, yên tĩnh nhưng không quá buồn. Trăng lên và tiếng chim kêu được miêu tả thật sinh động, giàu sức gợi. Nhà thơ đã dùng ánh sáng để miêu tả đêm tối, dùng âm thanh để miêu tả cái tĩnh lặng. Đây cũng là một thủ pháp nghệ thuật khá quen thuộc của thơ ca đời Đường. Khung cảnh thiên nhiên như thoát tục, gợi đến một cuộc sống thanh thản và nhàn nhã chốn điền viên sơn dã. Điểm nổi bật của bức tranh này là hình ảnh một tao nhân mặc khách đang muốn lánh chốn bụi trần để tịnh tâm.
Với Điểu minh giản, Vương Duy không hổ danh là nhà thơ đứng đầu của phái thơ điền viên sơn thuỷ đời Đường, thơ và hoạ hoà hợp làm nên vẻ đẹp cho thi phẩm. Thơ điền viên sơn thuỷ của Vương Duy khiến cho người đọc cảm nhận được vẻ tao khiết của tâm hồn.
III – Liên hệ
Linh hồn của bài thơ là ở câu thứ ba : Không khí yên tĩnh tới mức mà một ấn tượng về thị giác (trăng lên) đã tạo nên hiệu quả như một tiếng động ! Và tiếng động ở câu bốn cũng chỉ để làm nổi thêm không khí yên tĩnh ở câu thứ ba mà thôi. Dùng quá khứ để nói hiện tại, dùng cái hư để nói cái thực, dùng cái động để nói cái tĩnh…, đó là thủ pháp vẫn thường thấy trong thơ Đường.