Ca dao than thân

24.09.2014
Huy Nguyễn

Ca dao than thân

I – Gợi dẫn

1. Cùng với những bài ca dao yêu thương, tình nghĩa, những bài ca dao than thân cũng có số lượng lớn và rất tiêu biểu cho kho tàng ca dao Việt Nam về nội dung cũng như nghệ thuật.

2. Những bài ca dao về chủ đề than thân không chỉ là lời than thở về những thân phận, cuộc đời, cảnh ngộ khổ cực, đắng cay, mà còn là tiếng nói khẳng định giá trị, phẩm chất con người. ý nghĩa phản kháng xã hội, phản kháng những điều ngang trái ẩn chứa rất sâu trong đó.

3. Cách đọc

Đọc chậm, thể hiện nỗi niềm tâm sự trong các bài ca. Câu tám trong các bài theo thể lục bát cần ngắt nhịp 4/4. Bài Hòn đá đóng rong… ngắt nhịp theo thứ tự sau : 4/4, 4/4, 3/6, 4/4, 3/6, 4/4.

II – Kiến thức cơ bản

1. Về các bài :

(1) Thân em như tấm lụa đào,…

(2) Thân em như giếng giữa đàng,…

(3) Bướm vàng đậu đọt mù u,…

(4) Thân em như củ ấu gai,…

“Thân em như…” là hình thức mở đầu quen thuộc trong các bài ca dao than thân. Với lối so sánh này, hình ảnh về thân phận người phụ nữ được khắc hoạ cụ thể, rõ nét.

Tự ví mình như tấm lụa đào, như giếng giữa đàng, người phụ nữ ý thức được về vẻ đẹp, phẩm chất đáng quý, đáng được nâng niu, gìn giữ, trân trọng của mình (hình ảnh tấm lụa đào gợi ra vẻ đẹp dịu dàng, tha thướt đầy nữ tính ; hình ảnh giếng giữa đàng gợi ra vẻ đẹp trong trẻo, mát lành). Nhưng ngay sau hình ảnh so sánh là câu miêu tả mở rộng, cụ thể hoá hình tượng và ý nghĩa : Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai ; Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân. Người phụ nữ đẹp là thế, đáng quý là thế mà không tự lựa chọn hạnh phúc cho mình được, thân phận họ phụ thuộc vào người khác tựa như tấm lụa đào “phất phơ giữa chợ” không biết rồi ai sẽ là chủ nhân, không biết sẽ thuộc về ai ; như giếng nước mát trong “giữa đàng” không thể tự mình chọn người khôn hay người phàm đến rửa.

Bài (3) lại gợi ra một sắc buồn khác về thân phận người phụ nữ. Đó là nỗi niềm của người phụ nữ phải lấy chồng sớm, tựa như đọt mù u non nớt chịu cảnh bướm vàng đến đậu. Người phụ nữ phải lấy chồng quá sớm, phải từ bỏ tuổi thiếu nữ đẹp đẽ, mơ mộng để buộc đời mình với phận làm vợ đầy bó buộc, đau khổ trong xã hội phong kiến. ở vào tình cảnh ấy, biết san sẻ cùng ai ngoài gửi gắm nỗi niềm riêng buồn khổ trong lời ru.

Bài (4), nhân vật trữ tình em lại có ý thức đề cao phẩm giá của mình, đề cao những giá trị tiềm ẩn bên trong:

Thân em như củ ấu gai,

Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen.

Nhân vật trữ tình là một người phụ nữ đầy bản lĩnh. Lời ca khẳng định: hình thức bề ngoài có thể không phải dễ gây thiện cảm nhưng bản chất bên trong mới là giá trị thực. Cô đã rất tự tin :

Ai ơi, nếm thử mà xem !

Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi.

Bản lĩnh ấy không phải là điều mà người phụ nữ nào cũng dám bộc lộ.

Có những nét ý nghĩa giống những bài ca dao khác, tuy nhiên bài ca dao này, mặc dù có kết cấu “Thân em” nhưng tính chất than ít hơn. Nổi bật vẫn là sự tự khẳng định mình.

Những bài ca dao nói về thân phận người phụ nữ được có nhiều dạng thức khác nhau song vẫn thể hiện những nội dung cơ bản : khẳng định phẩm giá và than thở về số phận trái ngang của người phụ nữ dưới chế độ cũ.

2. Về bài : Hòn đá đóng rong vì dòng nước chảy,…

Đây là bài ca dao thể hiện một mảng chủ đề rất quen thuộc của văn học dân gian. Đó là chủ đề tình yêu. Thông thường tình yêu được thổ lộ rất mạnh bạo trong ca dao. Những điều khó nói trong cuộc sống, những ẩn ức, những nỗi đau thầm kín thường được nhân dân gửi trong những khúc ca dao. Nhân vật trữ tình của bài ca dao này là một người con gái, đây là lời thổ lộ về tình yêu của cô.

Hình ảnh, âm điệu tha thiết và thể thơ không bình thường (ca dao thường dùng thể lục bát hoặc lục bát biến thể) cho thấy đây là câu chuyện tình yêu gặp nhiều trắc trở. Lời thổ lộ tình yêu của người con gái thể hiện một khát khao hạnh phúc trong trạng thái và hi vọng thật mong manh.

Tìm hiểu mối liên hệ giữa hai câu đầu và bốn câu còn lại, có thể hiểu phần nào về kiểu cấu tứ theo thể hứng, một trong những kiểu cấu tứ của ca dao. ở đây là mối liên hệ giữa cảnh và tình, nêu cảnh trước để bộc lộ tình cảm sau, đối cảnh sinh tình. Cô gái, nhân vật trữ tình trong bài ca dao này, nói đến đá là để nói về sự thay đổi, phôi pha trong thời gian và hoàn cảnh nghiệt ngã : đóng rong vì dòng nước chảy, bạc đầu vì bởi sương sa. Vững chắc, trơ lì như đá mà không tránh khỏi phôi pha huống chi tuổi xuân của người con gái. Lời ca dao như một tiếng thở than. Bốn câu cuối bài bộc lộ tâm sự của người con gái trong tình yêu lứa đôi, trước nỗi sợ hoàn cảnh, lễ giáo phong kiến.

Nỗi sợ hãi của người con gái được cụ thể hoá bằng những hình ảnh mang sắc thái khác nhau. Nỗi sợ mẹ cha được “định lượng” “bằng đất”, “bằng trời”. Mẹ cha xuất hiện trực tiếp trong nỗi sợ của cô gái, nhưng đằng sau đó là lễ giáo phong kiến hà khắc, lạc hậu gò ép duyên phận người phụ nữ. Cha mẹ quyết định hôn nhân cho con, “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, thực tế này khiến cô gái sợ mà không dám nói ra tình yêu của mình với chàng trai. Hình ảnh “đất”, “trời” nói lên áp lực nặng nề, ghê gớm của xã hội cũ đối với mong muốn chính đáng của người phụ nữ.

Khác với nỗi sợ “bằng đất”, “bằng trời” khi nói đến mẹ cha, ở cuối bài ca dao, nỗi sợ, sự đắn đo “không dám kết đôi” vì một lẽ khác. Hình ảnh “vầng mây bạc” vừa đẹp đẽ lại vừa mỏng manh, không chắc chắn, dễ chuyển dời, tan biến là để nói về tình yêu nơi chàng trai, là nỗi sợ lòng người dễ đổi thay. Cái đẹp đẽ, lí tưởng, thơ mộng là tình yêu kia liệu có bền vững ? Càng yêu thương, câu hỏi ấy càng xoáy sâu, dày vò người con gái.

Người con gái trong xã hội phong kiến ngày xưa luôn phải đối diện với thực tế ngang trái. Đó là mâu thuẫn giữa một bên là khát vọng hạnh phúc lứa đôi với một bên là những ràng buộc về thân phận. Người con gái trong bài ca dao này đã thổ lộ tâm sự về nỗi sợ của mình trong mâu thuẫn ấy.

3. Về bài : Con cò mà đi ăn đêm,…

Bài ca dao có ý nghĩa như một câu chuyện ngụ ngôn. Nhân vật chính là một loài vật xuất hiện rất nhiều trong ca dao. Tác giả dân gian dựa trên đặc điểm tập tính thường phải đi kiếm ăn vào ban đêm, do đó có thể gặp nhiều tai hoạ của loài cò để xây dựng một tình huống thể hiện tâm sự về cảnh ngộ, nỗi niềm trong đời sống của mình. Việc kiếm ăn vất vả, nhẫn nại và bấp bênh của loài cò thật gần với thân phận lam lũ của người nông dân. Bài ca dao này bao đời nay đã trở thành khúc hát ru quen thuộc bởi cái âm điệu tình cảm tha thiết, vừa đau đớn, vừa kiêu hãnh, vừa lấp lánh vẻ đẹp của đức hi sinh và phẩm giá cao đẹp của một thân cò.

Mượn câu chuyện về con cò, tác giả dân gian đồng thời đã nêu lên một triết lí, một quan niệm nhân sinh thật cao đẹp. Đó là quan niệm “sống trong, thác trong”. Con cò vất vả kiếm ăn đêm hôm như thân phận người lao động nghèo cả cuộc đời cực nhọc vì miếng cơm manh áo. Bao điều bất trắc luôn rình rập. Nhưng dù cuộc sống có xô đẩy đến đâu cũng vẫn quyết giữ cho được tấm lòng trong sạch. Bài ca dao vì thế còn là một bài học đạo đức cao cả.

4. Về bài : Trèo lên cây khế nửa ngày,…

Bài ca dao được viết theo môtíp quen thuộc khi viết về chuyện tình yêu dang dở. Khi tìm hiểu bài ca, khó có thể lí giải một cách cụ thể rằng “Tại sao lại trèo lên cây khế… ?”. Cây khế chỉ là cái cớ cho sự xuất hiện của từ “chua xót” ở câu thơ tiếp theo, nhằm thể hiện lời than về một tình yêu dang dở.

Sự dở dang ấy thể hiện rõ ràng, cụ thể hơn ở hình ảnh ẩn dụ : mặt trăng, mặt trời, sao Hôm và sao Mai. Đó là hình ảnh biểu tượng cho đôi thanh niên nam nữ. Họ như “sao Hôm và sao Mai không cùng ở”. Đó là một tình yêu vô vọng nhưng câu ca vẫn khẳng định : tình nghĩa con người vẫn bền vững, thuỷ chung như thiên nhiên, như vũ trụ vĩnh hằng :

Mặt trăng sánh với mặt trời,

Sao Hôm sánh với sao Mai chằng chằng.

Mặc dù đã mượn những hình ảnh và quy luật của vũ trụ để tạo nên một hệ thống so sánh ẩn dụ nhằm khẳng định sự trắc trở, lỡ làng của tình yêu đôi lứa (mặt trăng – mặt trời – sao Hôm – sao Mai), song hai câu cuối lại mở ra một khẳng định khác :

Mình ơi ! Có nhớ ta chăng ?

Ta như sao Vượt chờ trăng giữa trời.

Tiếng gọi tha thiết bộc lộ nỗi niềm chờ đợi mỏi mòn vô vọng của chàng trai với cô gái. Hình ảnh sao Vượt chờ trăng giữa trời là một hình ảnh đẹp, và ánh sáng của ngôi sao đó chính là ánh sáng của tình người lấp lánh trong ca dao.

III – Liên hệ

1. Chùm ca dao về chủ đề than thân mở đầu bằng “Thân em…” :

– Thân em như cái cọc rào,

Mọt thì anh đổi, cớ sao anh phiền.

– Thân em như miếng cau khô,

Người thanh tham mỏng, người thô tham dày.

– Thân em như lá đài bi,

Ngày thì dãi nắng, đêm thì dầm sương.

– Thân em như hạt mưa rào,

Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa.

– Thân em như con cá rô thia,

Ra sông mắc lưới vào đìa mắc câu.

2. Chùm ca dao về hình ảnh con cò :

– Nước non lận đận một mình,

Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.

Ai làm cho bể kia đầy,

Cho ao kia cạn, cho gầy cò con.

– Con cò bay bổng bay la,

Bay từ cửa miếu bay ra cánh đồng.

Cha sinh mẹ đẻ tay không,

Cho nên bay khắp tây đông kiếm mồi.

Trước là nuôi cái thân tôi,

Sau nuôi đàn trẻ, nuôi đời cò con.

Facebook Google Plus Twitter
Cùng chuyên mục
Phát Biểu Cảm Nghĩ Về Bài Thơ “Cảm Nghĩ Trong Đêm Thanh Tĩnh”
Phân tích ngắn gọn cảnh “Đương đầu với đàn cá dữ”
Soạn bài Đập đá ở Côn Lôn
Đọc hiểu bài thơ Tự Tình II
Nghị luận xã hội về tinh thần tự học