Lão gác đêm Jonas Pepper sửa lại chiếc mũ dạ mùa đông ngay ngắn trên mái đầu điểm bạc, thắt lại chiếc khăn len thô choàng cổ và buồn bã nhìn lên bầu trời thăm thẳm, có vầng trăng khuất nửa trong mây.
Thở rít khàn khàn, lão cúi lom khom, tay cầm chiếc đèn lồng bằng sắt tỏa ánh sáng nhợt nhạt trên mặt đất giá băng, ẩm ướt. Lão đưa chiếc đèn lồng ngang khuôn mặt còn khá đầy đặn, khi xem kỹ cây nến, lão lẩm bẩm:
– Không phải loại nến tốt mà ta thường mua ở Philadelphia. May lắm được đến cuối phiên gác là cùng!
Lão cắm cúi lê bước trên con đường lầy lội, băng qua những ngôi nhà thưa thớt. Những ngôi nhà này im lìm ngả bóng trên mặt đường phủ sương mù. Trong màn đêm, ánh trăng tỏa một màu sáng bạc mờ ảo và những sợi khói thoát ra từ những ống khói cong queo.
Vừa đi Jonas vừa đung đưa cái chuông tạo nên những tiếng rung đơn điệu như một lời than vãn.
Đã hai giờ rồi, mọi sự bình yên!… Hai giờ, mọi sự bình yên!… Xa xa những con sói đáp lại bằng những tiếng hú thê lương. Từ bãi biển rất gần đó sực lên thứ mùi hổ lốn của tảo bị hư thối, của cá, nhựa đường, cây cỏ, cây gai và trội hơn cả là mùi của biển cả.
Bây giờ, Jonas cứ lội bì bõm dọc bờ biển ngổn ngang những mảnh vụn còn vướng lại khi nước thủy triều xuống. Sụp đến tận cổ chân xuống một lỗ đầy bùn nhão, lão suýt ngã, bật lên những tiếng nguyền rủa. Trước mặt lão những căn lều thấp lè tè chồng chất trên đồi cát trên bờ biển, lão đi qua sườn một con thuyền làm dở, rồi lủi thủi bước trên triền dốc thoai thoải choài ra đến biển. Lão dừng lại và quan sát bến cảng.
Một tàu buôn lớn đến từ Boston, chiếc Nancy Taplin đang cắm neo. Xa hơn, hàng nghìn chim hải âu gọi nhau huyên náo cả một vùng cát rộng.
Jonas tiếp tục bước những bước chểnh choảng, xiêu vẹo. Lão lắc mạnh chuông át cả tiếng kêu chát chúa của những con chim hải âu. Lão luồn lách giữa một con thuyền đang sửa chữa và một con thuyền chỉ còn trơ bộ khung. Đoạn đường này lão rất ghét đi qua trong những buổi tuần tra. Lão biết chắc chắn những rắc rối phiền phức nếu có xảy ra cho lão chính là ở đoạn đường này. Tuy nhiên lão cầu mong những kẻ xấu, bọn trộm cắp, lang thang bụi đời và những bọn lưu manh đủ mọi chủng loại khác sẽ nhận ra lão hay ít ra cũng nghe được tiếng chuông của lão mà bỏ đi nơi khác.
Lão nâng chiếc đèn lồng lên ngang đầu, rung lên một hồi chuông mạnh mẽ, đứng lặng im. Lão lắng nghe và đảo mắt nhìn khắp lượt quanh bãi biển rồi lão quay trở lại, bước xuống dốc, rẽ về phía đồi. Bỗng ngay lúc đó, lão chợt thấy… Một bóng đen vừa xuất hiện sau chiếc thuyền buồm, nó lướt qua bãi cát lấp loáng ánh trăng đi như chạy về phía một căn lều nhỏ và biến mất trong bóng đêm. Cách lão vài bước, một con mèo đen, như chiếc bóng kia vụt nhảy xuống, rít lên giận dữ với lão và cũng nhảy từng bước cồng cồng về hướng túp lều nhỏ.
Jonas hít không khí qua kẽ răng, đánh rơi cái chuông và chiếc đèn lồng. Nghiêng ngả giật lùi, va phải con thuyền buồm, bám chặt khung thuyền để giữ thăng bằng và kêu thảng thốt:
– Mụ phù thủy Augusta Stowecroft làng Godolphin đã trở về thật rồi! A! Điềm gở! Tai họa lớn rồi!
Toàn thân run rẩy, lão nhặt lấy chiếc đèn lồng đã tắt ngấm nằm lăn lóc trên sỏi. Lão mò mẫm tìm cái chuông. Bỗng lão nhận thấy vào lúc đó, đến từ cảng, một tiếng kêu răng rắc của một thanh xà bị gãy. Lão quên hẳn chiếc chuông, lẫn mụ phù thủy.
Cách đây chừng trăm mét, một chiếc tàu lớn chỉ còn nửa vạt buồm đang tiến về phía cảng. Nó len lỏi qua vách núi dựng đứng, lởm chởm đá, chạy dài về phía cuối bãi biển. Khi mũi thuyền va phải đá, nó khựng lại. Một phần tàu vỡ nát, chỉ còn lại cái khung, nằm nghiêng hẳn một bên nhưng mũi buồm vẫn hướng về ngôi làng Godolphin như một ngón tay trỏ đầy thách thức chìa ra.
Lúc này từ trong con tàu phát ra một tiếng súng ngắn cùng một tiếng kêu giận dữ và tiếp theo là hàng loạt tiếng nổ.
Bầy chim biển hoảng loạn bay rợp cả một vùng, che lấp hầu hết cột tàu như một đám mây bông giấy trắng.
Jonas sững sờ, đứng lặng người. Lão nhìn thấy một số người xuất hiện trên boong tàu, chạy về phía cột buồm, nháo nhác lao xuống biển. Một số khác nhảy đu lên dây cột buồm. Lão giật bắn người khi một viên đạn rít ngang tai, lão nấp vội sau sườn một con thuyền hư. Trên tàu, các thủy thủ bám vào dây buồm cũng lần lượt nhảy xuống biển, mong thoát khỏi cơn cuồng nộ của một gã khổng lồ mặt đầy râu ria, tay phải cầm kiếm, tay trái cầm súng lục, đang sải những bước dài qua boong tàu.
Gã khổng lồ kêu lên như tiếng tù và trong sương mù. Hắn nhảy lên cột buồm, mình trần để lộ râu rậm dài xuống tận ngực đầy lông lá, trông thật hung bạo và bẩn thỉu. Hắn gầm lên bằng thứ giọng pha trộn hỗn tạp, một thứ ngôn ngữ rất khó nghe:
– Lũ người ngu xuẩn! Nát rượu! Bọn bây không thể lật nhào con tàu Reine Anne của ta lên những mỏm đá này được đâu! Hãy chờ ta tóm bọn bây và cắt cổ tất cả… Ta sẽ…Ta sẽ…!
Hắn thở hào hển, giận dữ bắn vào thủy thủ, nhưng trong cơn điên loạn những viên đạn bay ra từ khẩu súng trong tay hắn tản mát loạn xạ trong không khí và rơi xuống biển.
Nhiều ánh đèn bắt đầu được dốt lên trên tàu buôn Nancy Taplin. Nhiều ánh đèn khác được thắp lên từ những cửa sổ vài căn nhà trong làng. Có tiếng còi báo động vọng lại từ xa. Một số thủy thủ của con tàu Reine Anne đã vào được bãi biển và gây hoảng loạn cho các con hải âu. Một số khác đang bơi cật lực vào bờ như một đàn cá trong cơn hớt hoảng.
Nhưng Jonas đã chứng kiến đủ rồi. Ông ta lại tiếp tục đi về phía đồi cát vừa lẩm bẩm:
– Đó là Râu Đen! Phải, Râu Đen!
Những người lính đã kéo đến rất đông, chiếm hầu hết bãi biển. Họ không gặp một sự kháng sự nào đáng kể. Những tên hải tặc không phải chỉ không có vũ khí. Chúng có vẻ bị đần độn do phải chịu sự ngược đãi bằng những phát súng hoặc báng súng của hải tặc Râu Đen.
Đứng trước cột buồm con tàu Reine Anne, Edward Teach, nổi tiếng hơn với hỗn danh Râu Đen, vung vẩy chai rượu sẵn sàng đón tiếp những người lính đang trên chiếc canô tiến ra con tàu buồm như những người bạn cố tri. Hắn quá tinh ranh để hiểu rằng; Trong tình trạng tế nhị của hắn giải pháp duy nhất là đầu hàng một cách vui vẻ. Hơn nữa, làm sao hắn lại không đoán được rằng hắn sẽ dễ dàng đánh lừa những người lính còn non trẻ đó. Những người lính này hầu hết hiếm khi được nghe nói đến Râu Đen, tên hải tặc là nổi khiếp đảm trên mặt biển và cả trong đất liền? Đối với bọn họ Râu Đen cũng chỉ là một thủy thủ như những thủy thủ khác, một anh chàng bặm trợn vui tính… Trong khi những người lính quấn quanh mình hắn bằng sợi dây thừng. Hắn cười vang dội.
– Hi! Hi! Các bạn làm tôi nhột quá! Đừng cù tôi như thế chứ!
Rồi vừa rúc rích cười hắn vừa bảo:
– Thắt chặt dây thừng chi vậy? Các bạn có biết tôi là ai không? Một nhà quý tộc! Và các bạn có biết tôi đến đây làm gì không? Phải, các bạn ạ, một nhà quý tộc tự đặt mình dưới sự bảo vệ của pháp luật. Hoàn toàn đúng như vậy đó! Tôi có ý định lập nghiệp ở đây, khép mình vào khuôn phép và trở thành một công dân khả kính!
Luật pháp này nói rõ rằng nếu như một tên hải tặc đầu hàng một thống đốc và thề từ bỏ những hoạt động gây tội ác của mình, người ta sẽ tha thứ cho hắn tất cả những lỗi lầm trong quá khứ dù tội ác có nặng nề đến đâu đi nữa. Dĩ nhiên tên hải tặc biết rất rõ và rất thích điều luật này!
* * * Ánh nắng ban mai, chiếu rọi qua cửa sổ phòng ăn nhà ngài thống đốc Eden, làm sang lên chiếc bàn sứ và chiếc đĩa bạc vẫn còn thức ăn của bữa ăn sáng thịnh soạn. Tia nắng làm óng ánh màu nâu vàng của một ít rượu còn lại trong chiếc bình pha lê.
Thống đốc Eden tựa mình vào chiếc ghế salon, vuốt ve cái bụng tròn trĩnh của mình, rồi uể oải cầm cái chuông trên bàn lên rung nhẹ. Tiếng chuông chưa dứt, cánh cửa đã bật mở và Tobias Knight, thư ký của thống đốc, bước vào phòng. Hắn đưa chân phải về phía trước, vụng về gập thân mình xuống và nói:
– Xin chúc ngài một buổi sang tốt lành, thưa ngài thống đốc. Tôi mong ngài đã ngủ ngon?
Thống đốc đưa tay chỉ một chiếc ghế khác đủ rộng để chứa thân hình phì nộn của người thư ký.
– Anh ngồi xuống đi, Tobias. Hãy ngồi xuống đi. – Ông ta nói với một nụ cười nhẹ trên môi. – Và bây giờ anh hãy nói cho tôi biết những người mới đến có hài lòng về sự hiếu khách của chúng ta không?
– Hơn cả hài lòng, thưa thống đốc.
Thống đốc Eden giật nảy mình, mở to đôi mắt:
– Anh hót cái gì vậy hả? Họ hạnh phúc cả ư… ngay cả với cái giá treo cổ? Higgins chẳng phải đã khiến cho chúng phải nhận ra và tự sửa mình với chiếc giá treo cổ ở trung tâm ngôi làng này sao?
– Higgins đã thi hành lệnh của ông, thưa thống đốc. Nhưng Râu Đen đã xem tất cả như là một trò đùa. Hắn không ngừng lặp đi lặp lại rằng hắn và người của hắn đã đến để tự đặt mình dưới sự bảo vệ của luật pháp. Phải thừa nhận rằng khi hành động như thế họ đã làm đúng như quyền hạn của mình. Chúng đến với chúng ta một cách ôn hòa và không hề kháng cự. Do đó, chúng ta không thể nào đem chúng đi treo cổ được!
Thống đốc Eden, mặt chuyển từ đỏ bừng sang tím tái, quát lên:
– Chúng ta không thể treo cổ chúng được sao? Vậy thì, chính tôi, tôi sẽ treo cổ chúng cao hơn cả… cao hơn cả….
Tobias rút bao thuốc trong túi áo gilet ra, chìa cho ngài thống đốc. Ông ta lắc đầu từ chối một cách bực bội. Tobias tự lấy cho mình một nhúm thuốc, đưa lên mũi, bỏ bao thuốc vào túi rồi chậm rãi nói:
– Ngài có biết không thưa thống đốc, tôi đã nói chuyện rất thú vị với Edward Teach.
Hắn chợt ngừng một chốc rồi nở nụ cười lém lỉnh:
– Hắn hình như có những kế hoạch có thể có lợi … cho ngài thống đốc, dĩ nhiên là cho ngài rồi và nếu như ngài thống đốc đồng ý… Ngài thống đốc đã dịu xuống, đôi mắt ngài đã trở nên hẹp và sang lóng lánh như mắt một con mèo đang chực nhảy lên mình một con chuột.
– Những kế hoạch có thể có lợi ư? Hãy nói tiếp đi, Tobias, hãy nói tiếp xem nào.
– Tôi có thể tự mình nhắc ngài thống đốc rằng nếu ngài thống đốc rằng nếu ngài treo cổ Teach, ngài sẽ chỉ nhận được một trăm livre, thật là quá ít!
– Và nếu như tôi không treo cổ hắn?
Tobias Knight không đáp, chỉ cười. Thống đốc ấn mình sâu trong ghế bành, đôi chân mày nhíu lại, trề môi và lầu bầu:
– Trước những vấn đề thuộc loại này, không bao giờ vội vã… Dù sao, có lẽ nên trò chuyện một chút với hắn trước khi treo cổ… Không, không bao giờ vội vã. Ông nghe rõ không, Tobias? Phải luôn luôn thư thả, luôn luôn!
Ông thư ký đứng lên:
– Thưa thống đốc, ngài có chấp thuận tiếp Teach ở đây không?
– Dĩ nhiên, Tobias. Hãy tìm gã đàn ông đáng thương đáng đó. Hãy đưa hắn ra khỏi nơi tăm tối và mang hắn ra ánh sáng. Hãy tin tôi đi, việc này rất hữu hiệu, việc đưa từ đêm tối ra ánh sáng rực rỡ của mặt trời!
* * * Một giờ sau, Tobias Knight thận trọng gõ lên cửa ngài thống đốc. Rồi ông ta lắng nghe và khi không có tiếng đáp lại, ông mở cửa và bảo:
– Thưa ngài thống đốc, đây là thuyền trưởng Teach. Ngài có bằng lòng… Ông ta ngắt lời bằng một giọng nói khô khan, lạnh lùng không nhận ra được.
– Teach? A! Đúng rồi, Teach. Hãy đưa đi. Tôi không có thời gian tiếp hắn lúc này.
– Vâng, thưa ngài thống đốc. – Tobias vừa đáp vừa rút lui.
Nhưng thuyền trưởng Teach không cần nể nang đẩy ông ta vào phòng và bước vào bên trong vừa cất tiếng ồn ào nói:
– Chào thống đốc! Ngài nói đúng. Không nên mất thời gian. Như tôi vẫn nói “càng sớm nhổ neo chừng nào tốt chừng đó!” Ngài thống đốc đang cầm trên tay một chiếc ly, có vài giọt rượu rơi ra bên ngoài vì quá ngạc nhiên, suýt chút nữa ông làm đổ nó khi đặt chiếc ly lên mặt bàn đá hoa cương.
– Tobias… Ông là một người ngu xuẩn. – Ngài lắp bắp nói và nghiến chặt hai hàm răng lại với nhau, nhìn tên hải tặc buông mình nằm dài trên tràng kỷ, vừa vuốt bộ râu chảy dài đến ngực.
– Thưa thống đốc, – Teach nói tiếp như quát. – Không nịnh ngài đâu nhé, thật đấy cái vòm của ngài tuyệt đẹp!
Thống đốc Eden ném một cái nhìn giận dữ về phía Tobias. Ông ta xoắn chiếc khăn tay trong những ngón tay của mình vừa có vẻ như một con chó sợ sệt.
Trong khi đó, gã hải tặc, hoàn toàn thoải mái, đưa tay chỉ khắp phòng một lượt.
– Căn phòng tuyệt đẹp! Chắc là đắt tiền lắm. Lợi nhuận của một thống đốc thì có là bao!
Gã lấy một chiếc gối lụa thêu chỉ vàng óng ánh trên chiếc tràng kỷ, vuốt ve nó, ném trả về chỗ cũ, rồi nói với một nụ cười ranh mãnh:
– Tôi có cảm giác rằng những vị thống đốc khi cầm một chiếc bánh phụ trội thì đều rất giống nhau. Do đó, tôi tự nhủ rằng có lẽ ngài sẽ hài lòng để nghe tôi giải thích một kế hoạch nho nhỏ mà tôi đã chuẩn bị. Ồ! Đó là một kế hoạch rất tuyệt! Tôi chắc chắn là nó sẽ giúp ngài có thêm một chút mắm muối vào cho tô canh ngon hơn. Ngài có hiểu không, đấy một khoản phụ thu thêm vào lợi tức của quý ngài.
Ngài thống đốc và Tobias ngạc nhiên đưa mắt nhìn nhau. Nhưng Edward Teach đã nói tiếp, trong khi ngài thống đốc co rúm người từ từ ấn mình sâu hơn trong chiếc ghế ngồi.
– Kế hoạch của tôi không chỉ tốt cho tôi, nó còn tốt cho quý vị, nó cung cấp những phương tiện sống cho những chàng trai lương thiện đang làm việc của ngài. Như tôi vẫn thường nói: “Cách tốt nhất ngăn không cho một người làm những điều xấu xa là cả ngày lẫn đêm phải làm cho hắn bận rộn.” Vừa nói gã hải tặc vừa liếc về bình rượu vừa đưa lưỡi liếm môi. Hắn nói tiếp:
– Tôi sẽ giải thích cho quý vị kế hoạch của tôi một cách ngắn gọn. Quý vị có thu nhập lớn về lệ phí đường đi trên đất liền, thưa ngài thống đốc, xin ngài đừng phản đối. Râu Đen này có nhiều thông tin rất chính xác. Nhưng quý vị có bao giờ nghĩ đến cửa biển và vùng vịnh không? Đó cũng là một món tiền thuế đáng kể. Và để làm việc đó, tôi chỉ cần một chiếc tàu tốt thuộc loại tàu Reine Anne, một thủy thủ đoàn sẽ giúp tôi tiến hành… thu gom và một mảnh giấy viết tay có chữ ký của ngài, thưa ngài thống đốc.
Lần này ngài thống đốc và viên thư ký cũng nhìn nhau ngạc nhiên nhưng với đôi chân mày nhíu lại:
– Ơn chúa và nhờ ngài, thưa thống đốc. – Edward Teach nói tiếp với giọng nói ồm vốn có của gã. – Tôi luôn luôn có thủy thủ đoàn của tôi. Những chàng trai dũng cảm sẵn sàng làm theo ý tôi, tôi chắc chắn như vậy, thu gom lợi nhuận của tôi và của quý vị. Dĩ nhiên, tôi sẽ bố trí họ ở Ocracoke. Đó là một đoạn đường hẹp hoàn toàn phù hợp với công việc thu thuế. Có thể nói rằng nơi đó đã được dành cho công việc này!
Với một sự trang trọng,vị thống đốc uống cạn ly rượu và đặt nó lên bàn, khoanh tay đặt trên bụng như là một tu sĩ đã được mãn nguyện. Sau đó ông quay sang Tobias.
– Có lẽ khách của chúng ta sẽ chấp nhận một ly rượu. Tobias, hãy rót cho chúng ta. Phải, cả ba chúng ta! Chúng ta sẽ uống mừng kế hoạch này, nó có vẻ làm tôi quan tâm.
Tobias tiến đến bàn, hắn đủng đỉnh rót rượu ra ba chiếc ly, đưa một ly cho Râu Đen.
Tên hải tặc nốc một hơi cạn đến giọt rượu cuối cùng và siết chặt chiếc ly trước ngực rồi giải thích với một một giọng làm như thân thiện.
– Này Eden, mấy lúc gần đây tôi có ý muốn vĩnh viễn lập nghiệp trên đất liền và tạo một quán rượu nơi tôi có thể có những khách hàng mà hầu hết là những người cập bến ở đây. Trong một thời gian dài, chì có biển cả làm tôi quan tâm. Tôi đã mong ước có một chiếc tàu đẹp, chắc chắn, chống được mọi thử thách của biển cả. Một con tàu khá chắc chắn trong nhiều năm. Nhưng ngài có biết không, trong vùng này biển không dễ chịu lắm, không có con tàu nào bền chắc chống lại được nó. Về lâu về dài biển phá hủy lần lượt tất cả, cho nên tôi tự nhủ rằng đất liền là một nơi để sống hơn biển cả và tôi quyết định cất lên một căn nhà, một căn nhà tốt, chắc chắn như một con tàu làm cùng một loại gỗ. Quý vị có nghe tôi rõ không? Với cùng một loại gỗ!
Sau một lúc suy tư, gã hải tặc hỏi tiếp:
– Phải, một ngôi nhà không bị hai hay ba cơn bão dữ làm hư hại. Hơn nữa, nếu tôi vĩnh viễn rời biển cả để sống trên đất liền, tôi sẽ cũng vững chắc tồn tại như bất kể con tàu nào!
Và gã hải tặc khổng lồ mặt đầy râu ria vừa làm bộ xấu hổ trước ngài thống đốc.
Kế hoạch được Râu Đen đưa ra thực hiện thật là độc đáo. Nhằm tự cung cấp một số gỗ cần thiết cho việc xây dựng một quán rượu, gã hải tặc bố trí những người canh gác trên vùng vịnh và ở cửa biển, Thật không may cho những chiếc tàu mới hay còn khá tốt đi qua những trạm gác này!
Khi một chiếc tàu được làm bằng gỗ cẩm lai hay gỗ trắc là có những căn phòng có chạm trổ bằng gỗ mun, thì ngay tức khắc nó sẽ bị tràn ngập bởi những tên hải tặc được dẫn đầu bằng thuyền trưởng Teach bằng xương bằng thịt đầy ấn tượng.
Gã này kéo theo sau mình là viên thuyền trưởng của chiếc tàu. Ông ta khá lo âu đi theo Râu Đen từ đằng trước và đằng sau tàu vừa quan sát tỉ mỉ vừa có khi thân ái đến mức cả tiền mãi lộ thông thường. Gã vừa tỏ vẻ hài lòng vừa vuốt ve với một bàn tay sành sỏi những loại gỗ khác nhau mà gã đã gặp phải khi đi quan sát khắp con tàu. Gã đánh giá từng loại gỗ xem nó là trắc hay cẩm lai.
Nếu như được thỏa mãn rồi, gã nói với viên thuyền trưởng của chiếc tàu đã bị gã để ý, với một sự lễ phép tuyệt vời:
-Từ hôm nay, ông không phải đi biển nữa. Ông trở thành người cung cấp cho tôi. Tôi chỉ đòi hỏi ông gỗ. Đó tất cả là những gì tôi cần.
Thường thì đi từ lo âu đến khinh bỉ, người thuyền trưởng khốn khổ đã thận trọng cố nặn ra một nụ cười đồng ý.
Tuy nhiên, một hôm, một vị thuyền trưởng đã chống lại. Ông ta cười ngạo nghễ và kêu lên:
– Ông nhầm rồi! Trên tàu của tôi không có gỗ!
– Ồ, có chứ. – Râu Đen cãi lại. – Ông mang thật nhiều và tôi chưa bao giờ được thấy loại gỗ nào tốt hơn!
Công việc bóc vỏ và cướp boong tàu để lấy gỗ trắc và cẩm lai là mệt nhọc cũng như việc mang những tấm gỗ mun trang hoàng các phòng của thuyền trưởng xuống. Tuy nhiên, thường thì công việc này hoàn tất hữu hiệu, dưới sự chỉ huy của hải tặc Râu Đen. Và chính thủy thủ đoàn của chiếc tàu gặp nạn phải thực hiện việc làm đau khổ này. Trong khi đó, những gã hải tặc thoải mái ngồi uống hết thùng rượu này qua thùng rượu khác. Và khi đám thủy thủ tội nghiệp kia tỏ ra mệt nhọc làm việc quá sức, bọn chúng động viên họ bằng những tiếng cười vang dội.
– Cố lên, các chàng trai! Làm việc mạnh hơn nữa nào!
Chỉ sau vài tháng, Râu Đen đã có đủ số gỗ cần dùng, hắn bắt đầu cho xây dựng quán rượu. Trong một lần đi thăm thống đốc Eden, hắn đã miễn cưỡng thú nhận rằng cách hắn thực hiện kế hoạch đã làm thiệt hại cho việc thi hành luật thu thuế. Thật vậy các tàu bè cuối cùng đã từ chối bỏ neo trong bến cảng Godolphin. Bọn họ tránh xa cảng này như sợ bệnh dịch hạch. Do đó luật thu thuế kỳ quặc mà Râu Đen phát minh ra không còn mang lại lợi lộc gì nữa cả. Ngài thống đốc rất buồn bực về tình trạng này. Ngài trách móc vị khách quý của mình.
Cuối cùng, tửu quán đã được dựng xong, Râu Đen đã quyết định đặt tên cho nó là quán “Đầu Heo Rừng”. Khi thanh gỗ cuối cùng đã đóng xong, sàn nhà được đóng bóng loáng như mặt nước, và bên ngoài được phủ một lớp sơn trắng toát. Mọi người đều nhận ra vẻ đẹp trang nhã của cái quán.
Sau khi thợ thuyền đã ra đi các cửa sổ đã được đánh bóng lộn, Râu Đen kiểm tra ngôi nhà đầu tiên của hắn trên đất liền, hắn ngắm nghía và trầm trồ tất cả những gì hắn gặp khi đi quanh nhà. Hắn kiêu hãnh chỉ những chi tiết đáng xem cho bọn thuộc hạ đang há hốc mồm ra nhìn ngắm với hắn. Rồi hắn lớn tiếng tuyên bố:
– Các chàng trai, đây là một ngôi nhà được cất lên như một chiếc tàu đẹp. Do đó phải hạ thủy nó cho đàng hoàng với bia, rượu rum và mời cả làng đến uống mừng cho sức khỏe của nó!
Cũng trong ngày hôm đó một thiệp mời được gửi đến thống đốc Eden và thuộc hạ của ngài, và một bản yết thị được đóng đinh lên mặt trước của ngôi nhà bằng gỗ có những chiếc cột to tròn được dùng làm gian chính tòa nhà. Cáo thị mời dân chúng đến dự buổi tiệc đáng ghi nhớ này. Ba thùng bia khổng lồ được đặt trong gian phòng chính của quán rượu cùng với những giỏ chứa chẵn bốn trăm chai rượu rum và rượu trắng. Không có gì bị bỏ sót để cho lễ khánh thành được trang trọng hơn lưu lại trong lịch sử của vùng Caroline! Râu Đen và đám thuộc hạ cướp bóc của hắn ngồi xổm trên sàn nhà. Chúng đùa cợt và cười vang dội trong khi chờ đợi khách. Tuy nhiên hai giờ sau đó, không một ai bước đến thềm quán rượu.
Qua cánh cửa mở rộng, Râu Đen và thuộc hạ của hắn có thể thấy con đường vắng tanh và im lìm, trong khi bình thường nó luôn tấp nập nhất là lúc này trong ngày. Chúng cũng thấy mặt trời to tròn và đỏ rực từ từ đi xuống màn sương nhuộm đỏ bầm, đi về phía cánh rừng thông đen sẫm bao quanh ngôi làng. Không bao lâu một người đưa thư đến, mang theo một mảnh giấy viết vội vàng của thống đốc Eden. Tưởng không cần thiết phải nói thêm rằng người đưa thư không chờ thư trả lời đã chuồn ngay sau khi đã đưa lá thư.
Từ lúc đó, gian chính của quán rượu trở nên yên lặng như nhà mồ. Trong công việc thu thuế, thống đốc cũng đã giàu lên nhưng ông ta cho rằng phần của mình không đủ. Do đó ông ta không được hài lòng và từ chối một cách lịch sự việc đến dự bữa tiệc khai trương quán rượu “Đầu Heo Rừng”. Còn những người dân làng đã đóng chặt cửa nhà phòng thủ tại gia như thể sắp có một cuộc tấn công dữ dội của người da đỏ. Trong phòng chính của quán rượu, gã hải tặc và đồng bọn giận dữ nằm lăn ra sàn nhà uống rượu rum và chờ đợi. Bọn chúng không thể tin được rằng dân làng dám coi thường lời mời của Râu Đen vĩ đại!
Cuối cùng bóng tối bao trùm lên trong quán rượu, Râu Đen đứng lên, lê chân đến cánh cửa chính đi qua thềm cửa và đưa mắt quan sát con đường vắng tanh. Một con chó không thuộc chủng loại nào đặc biệt chạy lon ton vừa đánh hơi mặt đường. Nó dừng lại cách Râu Đen khoảng năm mươi bước và quan sát hắn với đôi mắt dò hỏi và ướt át. Gã hải tặc búng ngón tay, huýt còi, nhưng con chó thay vì đến với hắn, vội cúi đầu xuống và chuồn mất, đuôi nó quất vào hai chân sau.
Râu Đen đi vào quán rượu. Hắn tự rót một vại bia, nốc một hơi cạn sạch, rồi quay trở lại cửa vừa tự nói với chính mình:
– Ngay cả những con chó cũng không đến khi ta gọi chúng!
Và sau khi lau miệng với mu bàn tay hắn nói lớn:
– Xứ gì kỳ lạ thật. Người dân không có vẻ gì quan tâm nhiều đến việc duy trì những mối quan hệ tốt với láng giềng của mình.
Rồi, từ từ, rất chậm chạp, một nụ cười méo mó hiện dần trên khuôn mật của hắn, và đôi mắt hắn sáng lên. Tình trạng buồn cười thay! Không bao lâu tiếng cười gằn của hắn biến thành một chuỗi tiếng cười càng lúc càng mạnh, vang dội cả bốn góc phòng như một tràng sấm sét.
Bọn thuộc hạ nhìn sững sờ thủ lĩnh của chúng và nhìn nhau ngạc nhiên. Nhiều tên rụt rè cố bắt chước Râu Đen. Cũng có thể do tiếng cười hay lây lan và hầu như không có gì ngăn chặn được khi nó đã phát ra. Tuy nhiên, bọn chúng cũng có một lý do khác để bắt chước tên thuyền trưởng. Bọn chúng biết rằng nếu chỉ quan sát hắn thôi cũng sẽ rất nguy hiểm cho chúng và ngay cả khi chúng không hiểu được sự bí ẩn của tràng cười điên dại của hắn. Do đó, sau vài giây, cả hai mươi bốn tên hải tặc lăn ra đất với những tiếng cười tưởng rằng như thể sẽ biểu lộ được sự phấn khích điên cuồng.
Những tiếng ồn ào đến tai của một dân làng duy nhất không nghe nói đến bữa tiệc khai trương quán rượu. Bà lão già cả, nhăn nheo, còm cõi đi chầm chậm trên con đường tối mò về phía ánh sáng của quán “Đầu Heo Rừng”. Một con mèo đen chạy quanh bà ta và cọ mình vào chiếc váy tơi tả của bà. Chính là người đàn bà mà Jonas Pepper đã gọi tên Augusta Stowecroft, trong lần thấy bà trên bãi biển.
Bà chợt dừng chân trước quán rượu, lắng nghe những tiếng rú và những tràng cười. Bà đưa đôi mắt ướt bỗng trở nên sáng hơn nhìn ngắm gian phòng xuất hiện trước mắt bà như một ốc đảo ấm áp, vui vẻ giữa ngôi làng u tối và lặng lẽ. Râu Đen vừa lau nước mắt do cười đang chảy dài trên gò má thì nhận ra qua kính cửa sổ gương mặt bà lão đang nhăn lại vì tò mò.
– Augusta!- Hắn gào lên.
Gương mặt chợt biến mất khỏi cửa sổ. Augusta khập khiễng đi khỏi quán rượu… – Augusta! – Râu Đen lặp lại.
Nhưng bà lão càng vội vàng bước tiếp tục rời xa. Râu Đen băng mình đuổi theo, chỉ ba bước là đã bắt kịp bà.
Ít lâu sau, hắn trở lại phòng chính của quán rượu. Augusta nhếch môi gượng cười đứng cạnh hắn. Bà đã đặt những ngón tay quặp xuống như những móng vuốt của bàn tay trái lên cánh tay của gã hải tặc.
– Im lặng nào, bọn trong kia!- Râu Đen ra lệnh. – Và cả bọn đứng lên! Nhanh lên nào! Bọn chúng mày đã quên rằng chúng mày đã quên rằng chúng mày đã được giáo dục cơ bản rất tốt rồi sao?
Bọn thuộc hạ đứng thẳng người lên và ngạc nhiên nhìn thuyền trưởng của chúng đang tươi vui nghiêng mình về phía người phụ nữ gớm ghiếc bên cạnh. Augusta, đầu nghiêng sang một bên, làm dáng, nhưng trong cách bà ta nhìn Râu Đen có một cái gì đó giả dối và e ngại. Gã hải tặc nhìn khắp thuộc hạ của mình và tuyên bố với một giọng có thể khiến cả làng nghe được:
– Tôi xin giới thiệu với anh em đây là cô gái đẹp nhất làng Godolphin! Quý bà… Tôi xin nhấn mạnh! Quý bà Augusta Stowecroft!.
Lúc đó trong tiếng la hét vui vẻ lại cất lên. Rồi những tên thuộc hạ nghiêng mình trước người phụ nữ mới đến, chúng vụng về đến va chạm vào nhau, ngã xuống, đứng lên. Một tên trong bọn họ giẫm cả lên con mèo khiến nó thét lên đau đớn. Những tiếng hoan hô, những tiếng vỗ tay những phát súng được bắn đi trong bầu không khí ấm áp ban đêm.
Lần này, bữa tiệc khai trương quán rượu đã trở nên nhộn nhịp. Rượu và bia tuôn ra như suối. Những chai lọ và bầu rượu bị đập vỡ khi đã uống cạn. Trong không đầy một giờ, gian phòng cũng tràn đầy mùi bia như đã được nhiều khách hàng đến nhậu nhẹt từ hai mươi năm rồi vậy.
Bữa tiệc thật thành công dù chỉ có hai người khách: một bà lão và con mèo của bà ta, cả hai đã bỏ công đi qua thềm quán “Đầu Heo Rừng”. Không còn những dấu hiệu xấu nào đã xảy ra làm u ám lúc bắt đầu bữa tiệc.
Bọn chúng hát những bản nhạc của biển, những bản tình ca và những bản nhạc buồn thảm, than vãn. Chúng khiêu vũ theo tiếng kèn. Augusta đánh nhịp bằng tay và gõ chân lên gỗ của thùng cây mà bà đang ngồi. Đêm hôm đó, lần đầu tiên bà tỏ ra cho đồng loại của mình một điều khác hơn sự khinh tởm, sợ sệt và những câu mắng chửi.
Bà ta không rời quán “Đầu Heo Rừng” nữa. Bà trở thành người giúp việc, người canh gác và quản lý ở quán rượu. Cuối cùng bà đã tìm một mái nhà cho chính mình và con mèo. Trong vài tuần lễ, bà ta thuộc về quán rượu cũng như lò sưởi bằng đá và sàn nhà bằng cẩm lai. Bà ta không chỉ bằng lòng dọn sạch sẽ và ngăn nắp những phòng khác và phòng chính. Trong những giai đoạn dài khi hải tặc Râu Đen và đồng bọn đi biển, bà hết sức cẩn thận trông nom tất cả những gì thuộc về Râu Đen. Bà và cả con mèo của mình còn đáng giá hơn mười hai con chó giữ nhà.
Như thế thì buổi tiệc khai trương quán rượu quả là một thành công. Sau cái đêm đáng ghi nhớ nhất trong đời mình Augusta Stowecroft ngủ dưới quầy rượu và cho đến sáng hôm sau, con mèo Diablo của bà ngủ say sưa ngay bên cạnh. Sau bữa tiệc khai trương, Godolphin trở lại yên tĩnh, nhưng không kéo dài được lâu. Thật vậy, nếu như thống đốc Eden và những gã hải tặc giàu lên thì dân làng càng ngày càng nghèo đi. Họ không buôn bán gỗ được kể từ khi tàu buôn đã không còn bỏ neo ở cảng này nữa. Vào mùa thu, khi lá trên cây vàng úa, họ bắt đầu cho rằng tình trạng này không còn chịu đựng được nữa. Họ bí mật đề cử một vài người trong số họ và gửi đi Virginie. Nơi đó những người đại diện xin yết kiến thống đốc Spotswood. Ông này nói với họ:
– Dĩ nhiên, tôi không thể làm gì chống lại anh bạn đồng nghiệp Eden của tôi. Nhưng quý vị hãy tin nơi tôi. Tôi sẽ dẹp cho quý vị Râu Đen và bè đảng của hắn.
Những người đại diện trở về Godolphin và chờ đợi, tràn đầy hi vọng.
Ngày 15 tháng mười một năm 1718, Râu Đen báo cho Augusta phải trông nom cẩn thận hơn bao giờ hết quán rượu sau khi đã tuyên bố:
– Tôi sẽ đi một vòng hướng Ocracoke. Nhưng lần này không phải để thu thuế.
Gã chớp mắt và nói tiếp:
– Tôi muốn cưới vợ. Augusta đừng ngạc nhiên, nếu tôi đưa hôn thê của tôi về nhé!
Đối với bà già canh giữ quán rượu thì không có gì khiến bà ta ngạc nhiên được!
Râu Đen vuốt ve con mèo Diablo, âu yếm vỗ vai Augusta rồi sau khi thắt chặt thắt lưng, hắn đi ra khỏi quán “Đầu Heo Rừng” và đi những bước chân nặng nề về phía bến cảng.
Đúng vào lúc hai chiếc tàu vũ trang đầy đủ đi về phía Goldophin. Một chiếc do thuyền trưởng Brand chỉ huy, chiếc kia do trung úy Robert Maynard chỉ huy. Cà hai sĩ quan đã nhận được lệnh bắt giữ Râu Đen và đồng bọn, vĩnh viễn xóa sổ chúng trên biển. Nhất là họ đang nghĩ đến một trăm livre tiền thưởng mà họ đã được hứa hẹn. Có nên nhấn mạnh rằng thống đốc Eden không màng đến giúp đỡ thống đốc Spotswood chăng?
Ngày 21 tháng mười một, lính gác báo cáo đã phát hiện chiếc Reine Anne đang bị bỏ neo trong vịnh Ocracoke. Râu Đen cũng đã nhận ra những chiếc tàu chiến và ngay tức khắc hắn hiểu ra chúng muốn gì ở hắn. Hắn vẫn khinh thường những sĩ quan mà hắn đoán rằng hãy còn non trẻ và thiếu kinh nghiệm nên không cần chạy trốn. Thật ra hắn rất muốn đánh nhau. Hắn đã cảm thấy quá nhàm chán sự đơn điệu của công việc rình rập nạn nhân của mình và áp dụng luật thu thuế. Chiếc tàu của trung úy Maynard cập sát sườn chiếc Reine Anne với những tiếng va chạm chát chúa. Ngay tức khắc Râu Đen và đồng bọn lao vào tấn công, tràn sang chiếc tàu chiến vì chúng nghĩ rằng sẽ dễ dàng chiến thắng. Nhưng lần đầu tiên trong suốt sự nghiệp của mình Râu Đen nhận ra rằng hắn đã gặp người ranh mãnh hơn hắn. Từ khắp nơi trong thân tàu, trước mũi và phía đuôi tàu những thủy thủ ẩn nấp kín đáo túa ra. Tất cả bọn hải tặc bị đè bẹp bởi số đông thủy thủ. Tất cả… trừ Râu Đen.
Thân mình đẫm máu do bị hơn hai mươi vết thương, Râu Đen mở một con đường máu đi về phía trung úy Maynard. Hai địch thủ cùng một lúc nổ súng. Phát đạn của Râu Đen mất hút trong không gian. Còn viên đạn của Maynard đã điểm trúng ngay vào gương mặt to bành của gã khổng lồ. Ngay tức khắc bộ râu nổi tiếng của gã hải tặc nhuộm đầy máu. Với một tiếng thét giận dữ điên cuồng hắn lao đến vừa vung cao thanh gương chỉ huy to lớn của mình bổ xuống người sĩ quan trẻ. Viên trung úy chỉ được vũ trang một thanh gươm nhẹ. Nhưng ông ta chấp nhận trận chiến. Hai lưỡi gươm chạm nhau phát ra tiếng lách cách. Vào lúc đó, một thủy thủ của Maynard tấn công Râu Đen phía sau sườn. Anh ta đưa kiếm lên quét một vòng nhanh như chớp đánh vào gáy Râu Đen và cắt nửa phần gáy của hắn.
Hải tặc Râu Đen đưa một bàn tay lên ôm giữ đầu và quay ngược lại thọc lưỡi gươm vào ngực người thủy thủ. Sau đó gầm lên như một con thú dữ, hắn đứng tựa lưng vào một cột buồm. Hàng loạt đạn chọc thủng người hắn. Điều này không ngăn được hắn một lần nữa chĩa mũi súng về phía Maynard. Nhưng lúc hắn sắp bóp cò đôi mắt hắn trở nên trong suốt, những ngón tay mở ra và khẩu súng rơi xuống. Hắn đã chết nhưng vẫn đứng thẳng, tựa lưng vào cột buồm, chân dạng ra, đồng tử thất thần nhìn vào mặt viên sĩ quan trẻ. Do tàu bị va chạm mạnh thân thể mất thăng bằng của thuyền trưởng Edward Teach, hỗn danh Râu Đen, từ từ gập xuống và lăn kềnh ra boong tàu. Trung úy Robert Maynard nhận được một trăm livre tiền thưởng. Tuy thống đốc Eden quyết định hơi trễ một chút trong việc cạnh tranh với người đồng nghiệp Spotswood của mình về mặt rộng lượng. Nhưng để tỏ ra rằng ông ta cũng là một thành viên được thuyết phục và trật tự. Ông ta tặng cho người chiến thắng Râu Đen quán rượu “Đầu Heo Rừng”.
Ngày 6 tháng riêng 1719, bà Augusta Stowcraft bị kết án hành nghề phù thủy và chết trên giàn hỏa thiêu.
Một buổi trưa thứ sáu của mùa xuân, hai đứa trẻ mười bốn tuổi vừa trò chuyện vừa chen vai giữa đám học sinh chậm chạp tiến về phía cổng trường trung học Godolphin. Khi cả hai thoát ra ngoài, chúng nhanh chân bước ra đường lớn rồi đến đại lộ Maynard, đi về phía quán rượu “Đầu Heo Rừng”.
Sau một lúc chúng đi chậm lại. Một trong hai đứa, cao hơn, mảnh khảnh, mặt đầy tàn nhang, cất tiếng hỏi:
– John này, có phải người ta sắp phá hủy quán rượu “Đầu Heo Rừng” thật không?
– Đúng đấy, Henry, công việc đã bắt đầu.
John, đứa trẻ thấp có mái tóc nâu dáng người tròn trịa, đáp:
– Thật ngu xuẩn! Tại sao phá hủy một ngôi nhà xưa tốt đẹp bị ma ám ấy vậy?
– Tại sao ư? – John lặp lại. – Vì Joe Maynard cuối cùng cũng đã bán khu vực này cho người ta xây dựng một trạm xăng. Bây giờ, đi đến đó nào. Nếu không đi nhanh hơn, khi chúng ta đến đó thì sẽ không còn bức tường nào nữa.
Từ bên trong quán rượu vang lên những tiếng búa đập đinh tai thoát ra và tiếng thạch cao kêu lách tách liên tục rơi trên sàn nhà. Jake Kowalek giám sát nhóm thợ làm công việc phá chúng. Đó là một người đàn ông khoảng sáu mươi tuổi. Lúc này, xuyên qua lớp bụi và khói thuốc lá đang nhìn mái quán rượu “Đầu Heo Rừng” với một vẻ phân vân lo lắng.
Rồi ông rảo bước vào bên trong quán rượu, đi qua gian phòng chính mà nền đã lỗ chỗ mục nát, và sau khi cúi mình để đi qua một cái vòm, ông đi vào một gian phòng hẹp, trần rất thấp. Nơi đó trong lúc người ta tháo gỡ hết lớp gỗ ốp lát và lớp thạch cao thì những cây cột to lộ ra.
Hai công nhân mình phủ đầy bụi đang đứng đối diện nhau. Một trong hai người, đầu nghiêng sang một bên vai quay ra cửa sổ. Người kia cố gắng lấy một mảnh thạch cao rơi vào mắt với một chiếc khăn tay. Vừa làm hắn vừa lặp đi lặp lại, giọng bực tức:
– Đừng động đậy! Mình làm sao mà lấy ra được. Sao mày không ngừng động đậy như vậy?
Người quản đốc tiến đến, quan sát con mắt chảy đầy lệ, đặt tay lên vai người công nhân:
– Nghe này Jerry, chắc chắn là không nghiêm trọng, nhưng anh phải đến gặp bác sĩ, chẳng hạn như chỗ bác sĩ Rolls đấy.
Cùng một lúc ông ta nghĩ: “Chắc phải phát điên lên mất. Đấy là người thợ thứ sáu phải bỏ dở công việc chỉ trong ngày hôm nay thôi! Sáu người với những vết thương thật là buồn cười, chỉ như đùa ấy. Vừa đủ nặng để không phải làm việc và bình yên trở về nhà xem truyền hình. Trong việc này, có gì đó không ổn. Thí dụ như người cất cái nhà này! Ôi tôi thật muốn biết hắn là ai! Những cây đinh có thể đếm trên đầu ngón tay. Khắp nơi chỉ có những chiếc nêm và chốt. Không thể rút cái gì ra được hết. Còn những chiếc búa có đầu nhọn thì thoát đi khỏi tay công nhân, nhảy nhót lung tung… và những công nhân bị thương nữa! Bây giờ, đến lượt Jerry, tay thợ tốt nhất của mình, bị cái gì đó rơi vào mắt. Tôi dám cược bất cứ cái gì là nó chỉ đi làm sau hai ngày nữa!” Ban đầu, công việc khá dễ dàng. Những trang trí, những phần phụ thêm vào từ lâu sau khi xây dựng quán đã dễ dàng được bốc ra trong hai mươi bốn đồng giờ. Nhưng bây giờ đã đi vào phần chính của ngôi nhà thì gặp hết trở ngại này đến trở ngại khác. Jake Kowalek quyết định:
– Đã đến lúc phải thông báo cho ông chủ!.
Ông ta đi ra khỏi quán rượu, băng qua đường, vào một cửa hàng tạp hóa, tiến về phía chiếc điện thoại, đưa một đồng tiền vào rãnh, bốc máy lên và chờ. Không bao lâu, một giọng nói êm ái rót vào tai:
– Công ty dầu lửa Stanfort xin nghe.
– Xin chào Alice! Tôi là đốc công đây, xin được nói chuyện với ngài Bailly.
– Xin lỗi ai muốn nói với ông Bailly ạ?
– Ồ, cô không nhận ra tôi sao? Jake Kowalek đây. Tôi cần nói chuyện với ông Bailly gấp!
Sau một vài giây, giọng nói của người phụ nữ được nối tiếp với một giọng nam êm dịu như tiếng một vá than rơi trên sàn xe tải còn trống khiến người quản đốc giật nảy mình đưa ống nghe ra khỏi tai.
– Thế nào? – Ông Bailly lặp lại. – Có gì không ổn nào?
– Nhiều lắm, thưa ông chủ. Tôi biết rằng những điều tôi sắp kể ra cho ông nghe sẽ có vẻ rất ngu xuẩn. Tuy nhiên, tôi đoan chắc với ông rằng tất cả đều thật. Trong cái quán rượu này, không có gì muốn bị phá hủy cả. Người ta cho rằng tất cả chỉ liền thành một khối. Tôi đã cho sáu người của tôi nghỉ việc vì họ bị thương. Còn những điều kỳ lạ khác như cái giỏ đựng bữa ăn tự nhiên biến mất như có phép lạ. Không sao làm việc được!
– Chỉ có thế thôi sao?
– Ồ! Không! Không chỉ có giỏ thức ăn bị mất mà còn cả những dụng cụ đã mất nữa. Ngài có nhớ cái búa mà ngài đưa cho chúng tôi cách nay hai ba ngày không? Vậy mà khi đến lúc tôi lấy ra làm nó đã bị vặn vẹo như con rắn. Không ai có thể điều khiển được. Nó lao về phía người sử dụng và truy đuổi người đó nữa. Mac buộc phải chạy trốn nó! Còn điều này nữa, vừa rồi cả ngôi nhà tràn đầy những khói lá thuốc.
– Có hỏa hoạn à?
– Không thưa ngài, không hề có lửa mà chỉ có khói. Khói hôi thối như bốc ra từ rác bị thiêu hủy. Rồi một lúc sau nó hạ xuống khiến không ai làm việc được trong suốt một giờ.
Nói xong người quản đốc chờ, cho rằng những lời nói của ông Bailly cho biết ý kiến. Nhưng ông vẫn im lặng, vì thế Jake Kowalek nói tiếp:
– Còn một việc khác nữa, thưa ngài. Một công nhân của tôi đã khám phá được dưới căn nhà có một loại như phòng giam, có thể có nhiều phòng giam với những khoan sắt được đính trong tường, những máy móc mà tôi chưa từng thấy, khiến tôi lạnh cả lưng. Tình trạng lúc này là như thế đó thưa ngày. Thật không vui chút nào. Nhiều công nhân của tôi không làm việc. Họ nói rằng cái quán này bị ma ám.
Jake Kowalek lại chờ câu trả lời. Rồi ông ta chợt gọi:
– Thưa ông chủ! Ông chủ ơi… Ông ta đưa ống nghe ra khỏi tai. Quan sát nó, nhíu mày, rồi thét vào ống nghe:
– Ông chủ! Ông chủ ơi!
– Nhẹ nhàng một chút nào, đồ to mồm! – Đến lượt ông Bailly thét lên. – Anh làm thủng màng nhĩ của tôi mất!
Ông quản đốc phàn nàn:
– Tôi nghĩ rằng điện thoại bị cắt. Nào, theo ngài, ta phải làm gì đây?
– Nghe đây, anh bạn. Anh đã nhận phá hủy nó và càng nhanh càng tốt có phải không nào? Nếu như anh không làm được, tại sao anh không bỏ một que diêm đang cháy trong một góc nào đó… do bất cẩn?
Jake Kowalek cười gằn:
– Này, ngài Bailly, không thể làm như thế được! Ông không thể đòi hỏi tôi làm việc đó!
– Tại sao không?
– Này nhé, ngôi nhà này được làm bằng gỗ như cẩm lai, gỗ lim, gỗ tếch, gỗ mun… toàn những loại gỗ quý. Tất cả một số tiền khổng lồ đã đổ vào đó. Chỉ một điều phiền phức nhất đó là khi phá hủy nó… không thể được! Thí dụ như tôi đã bố trí hai công nhân lên tháo máy nạp bằng gỗ. Chúng tháo những được những tấm đầu. Nhưng, bên dưới có những tấm khác mà không làm chúng nhúc nhích được.
– Tại sao?
– Làm sao tôi biết được.
Ông Bailly lặng im vài giây rồi hỏi:
– Những tấm lợp đó bằng gì vậy? Bằng vàng chăng?
Jake Kowalek bắt đầu cảm thấy cuộc đối thoại có phần dễ chịu hơn. Đây là lần đầu tiên anh nói chuyện một cách thoải mái với ông chủ của mình.
– Ồ, không! – Anh đáp lại. – Không phải bằng vàng! Chúng chỉ bằng gỗ mun.
– Bằng gỗ mun ư? – Ông Bailly sửng sốt hỏi lại. – Ai giàu mà ngu, sử dụng gỗ mun trong sườn một mái nhà như vậy?
– Thì người cất ngôi nhà ấy chứ ai. Tôi nghĩ rằng anh ta muốn nó tồn tại cả nghìn năm. Và tin tôi nếu như không tìm được cách hạ nó thì nó sẽ tồn tại hàng nghìn năm thật đó.
Lại im lặng, lần này kéo dài khá lâu khiến ông quản đốc lo ngại gọi lớn:
– Ông chủ… Này! Ông chủ ơi…!
Không có câu trả lời, ông Bailly ấn mình sâu trong ghế bành, trầm tư suy nghĩ, trong lòng ông đang lộn xộn những từ kèo, cột, mun, trắc, cẩm lai, nhà bị ma ám, lợi nhuận quan trọng cụ thể, hồn ma. Cái từ “hồn ma” cứ ám ảnh mãi trong đầu óc của ông… Cuối cùng khi ông Bailly nói lại, giọng của ông thật dịu dàng, yếu ớt không còn chút âm hưởng nào của vá than rơi trên sàn xe.
– Được, tôi nghe đây Kowalek.
– Còn bọn công nhân của tôi thì sao, thưa ngài? Tôi có ý kiến là ta nên cho họ về nhà sau khi trả lương ngày mai. Nếu như ta không làm như vậy thì ngày thứ hai không còn ai làm việc ở trong công trường nữa. Ngài có thể tin nơi tôi, công nhân chán ngấy công việc ở đây rồi!
Jake Kowalek nói thêm :
– Hơn nữa cũng sắp đến giờ nghỉ rồi… – Được rồi đồng ý thôi Kowalek.
– Nhưng thưa ông chủ, ngài không muốn đến đây sao? Chính ông sẽ đánh giá được mọi việc. Dĩ nhiên với điều kiện không còn khói và mùi thối sẽ hoàn toàn bay mất.
– Được rồi, đồng ý thôi Kowalek. Thật không may, tôi phải đi, máy bay sẽ cất cánh trong một giờ nữa.
– Thôi thì mặc kệ nó… – Tôi sẽ về vào trưa thứ hai… có thể hơi muộn một chút. Lúc đó tôi sẽ đến xem. Hãy cố gắng cho mọi việc suôn sẻ cho đến lúc tôi trở về nhé.
– Xin ngài cứ tin ở tôi.
Ông Bailly buông máy xuống và thở dài mệt nhọc, ấn mình thật sâu trong ghế bành. Gương mặt ông biến sắc do xúc động. Ông cắn môi dưới và lầm bầm nhìn chăm chăm vào chiếc điện thoại :
– Bằng gỗ mun! Những tấm lợp nhà bằng gỗ mun!
Hai đứa trẻ Henry Oberteuffer và John Jones dừng lại cách quán “Đầu Heo Rừng” khoảng ba mươi mét. Chúng thấy những người công nhân miễn cưỡng đi vào quán rượu rồi bước ra mang theo đủ mọi dụng cụ, ném chúng vào trong xe tải và lần lượt leo lên. Chiếc xe nặng nề lăn bánh trên con đường mòn qua những bồn cỏ hai bên có cây đu. Rồi sau khi vượt qua cửa cổng nó chạy ra ngoài đường cái.
Bên trong quán “Đầu Heo Rừng” không có ai. Mặt đất chung quanh đầy những rác rưởi của nhiều thế hệ người cắm trại bất cẩn đã để lại. Từ lúc những công nhân đã rời đi, và nhất là từ khi những người đi đường không còn quan tâm đến cái quán rượu cũ kỹ, John và Henry nhận ra rằng chúng là những người duy nhất trên đời quan tâm đến số phận của nó.
Chúng nhìn nhau rồi không nói một câu, bước chân qua cổng, lao người trên con đường mòn và chỉ dừng lại khi đứng giữa gian phòng chính của quán rượu. Sau đó chúng đi đến từng gian phòng và quan sát kỹ lưỡng khắp nơi. Chúng nhận thấy một vách ngăn gỗ đã biến mất và quang cảnh đã thay đổi.
Từ khi những phần thêm đã bị lấy đi rất gần đây cùng những phần trang trí mong manh, những cột đẽo bằng tay đã xuất hiện cũng như lớp vữa đầu tiên. Những gian phòng đã lấy lại vẻ cũ kỹ hơn, trang trọng hơn, nhưng cũng có một không khí đặc biệt hơn trước.
Henry cúi nhặt một vật thật sự “thời thượng”, một mẩu nến may mắn thoát khỏi răng chuột. Nó bỏ vào túi.
John là người đầu tiên cất tiếng :
– Không còn như trước nữa, cậu có nhận thấy như vậy không?
– Có. – Henry đáp.
– Những công nhân đã bốc đi những lớp đá có khoảng năm mươi năm hay một trăm năm trước. Bây giờ mới đúng như lúc Râu Đen còn sống ở đây.
John tách xa bạn và bắt đầu nhìn giữa những cây cột. Henry nhìn bạn và tự hỏi: “Nó tìm cái gì vậy?”, và nói với giọng chế giễu:
– John, làm cách nào mà cậu có vẻ rành nơi này quá vậy?
John là bạn thân nhất của Henry. Thật ra, chúng có thể coi là không bao giờ rời nhau. Nhưng khi John tỏ ra biết một số vấn đề mà cậu không biết, Henry khó giấu được sự bực dọc. Và việc này thường xảy ra khiến cậu không muốn thú nhận sự dốt nát của mình, dù với chính bản thân.
– Cậu nói rằng tớ biết rành à, về cái gì chứ? – John càu nhàu.
– Về ngôi nhà này và về Râu Đen. – Henry đáp trong lúc đến lượt cậu đưa đầu vào giữa hai cây cột.
Rồi cậu nói thêm khi thích thú nghe giọng nói biến đổi giữa những cây cột này:
– Ai bảo với cậu rằng hải tặc Râu Đen đã sống ở đây?
John đáp lại và nhấn mạnh từng từ một:
– Tớ biết điều này từ rất lâu rồi! Và tớ cũng biết ngôi nhà này xưa kia được xây dựng như thế nào khi nghe người ta kháo nhau ở ngoài đường. Cậu không có nghe sao? Nhung điều khiến tớ ngạc nhiên hơn cả mà cậu không biết là chính hải tặc Râu Đen đã xây dựng quán “Đầu Heo Rừng” này!
Herry đành nói dối:
– Có chứ, tớ biết điều này mà. Cậu cho tớ là thứ người gì hả? Một tên ngu dốt phải không?
Cậu nhìn John một lúc. John ngồi xổm xuống, tay bóp nát một mảnh thạch cao.
– Cậu tìm gì thế? – Henry hỏi.
– Một vài vật. – John đáp nhưng không đứng lên. – Giáo sư sử học Allan dạy lịch sử có nói với tớ rằng người ta tìm được rất nhiều vật đáng quan tâm trong những ngôi nhà cổ như ngôi nhà này, khi phá bỏ chúng.
Henry lại đi quan sát nhiều lỗ hổng trong tường.
– Trò đùa! – Henry lẩm bẩm.
Tuy vậy, trong lòng cậu cũng rất xúc động. Cậu không rút đầu ra khỏi hai cây cột, đi dọc tường quỳ gối xuống, luồn qua một cái lỗ hổng mà John vừa bỏ đi, tìm trong đống gỗ mục nát nhưng không tìm được gì cả.
– John, tớ chẳng tìm thấy gì cả! – Cậu bé rên rỉ.
– Tiếp tục tìm đi!
Sau vài giây im lặng, Henry chợt kêu lên:
– Xem này, John!
Cậu ngồi ngay xuống đất, quan sát vật vừa tìm được. Đó là một vật nhỏ màu vàng, đường kính độ bằng một đồng đô la bạc.
– Cậu tìm thấy cái gì vậy? – John hỏi.
– Cái này!
John chạy đến ngồi xuống cạnh bạn:
– Đó là một loại ảnh tượng đeo ở cổ. – Henry vừa nói vừa chìa ra cho John xem.
John đứng lên, chạy đến cửa sổ. Henry theo sau. John mở to mắt vì tò mò hơn là ngạc nhiên.
– Ồ! Ồ! – Cậu bé hồi hộp nói nhỏ. – Cậu tìm thấy nó ở đâu vậy?
Henry cười hãnh diện rồi cố tình che đậy bằng cách uể oải nói: (…) – Cậu có thể nói là cậu gặp may rồi đấy!
– Theo cậu thì là cái gì vậy? Một ảnh tượng đeo ở cổ hả?
– Không! – John lầu bầu. – Đó là một đồng tiền… một đồng tiền cổ.
Cậu bé quay sang bạn, nói tiếp:
– Cậu muốn tớ cho biết ý kiến riêng của tớ không? Tớ có cảm tưởng đó là một đồng tiền vàng Tây Ban Nha cổ. Chúng ta sẽ đi hỏi giáo sư Allan. Chắc chắn ông ta sẽ biết nó là cái gì. Cậu có thấy không, Henry? Đồng tiền này có thể của Râu Đen!
Nói rằng Henry lấy đồng tiền từ tay John là dùng không đúng từ. Vì cậu bé vội giật lấy và nói:
– Đưa tớ xem nào! Có thể còn hàng trăm đồng tiền như thế này ở tại đây.
Cậu bé cho đồng tiền vào trong túi. Nhưng John lại đã lại bắt đầu bò đi lục tìm từ bức tường này sang bức tường khác, từ lỗ hổng này sang lỗ hổng khác để tìm một kho báu.
Henry vội vàng bò theo bạn. Cậu vừa thọc sâu tay xuống dưới lớp bụi của sàn nhà vừa hỏi:
– Cậu có nghĩ rằng sẽ tìm được những đồng tiền khác nữa hay không?
Giọng John đáp lại từ xa:
– Cậu nói gì, tớ không hiểu?
Henry nói lớn hơn:
– Tớ nói là cậu có nghĩ rằng sẽ tìm được những đồng tiền vàng nữa không?
– Có lẽ thế.
Chúng làm việc như những con chuột chũi bị đói. Chúng đào bới, sục sạo làm dấy lên hàng đống bụi dày, khuấy động đống đất đá, xem xét tỉ mỉ từng xó xỉnh, khe rãnh nơi mà mắt con người có thể nhìn thấy được từ hơn hai thế kỷ qua. Chúng cực nhọc len lỏi trong những hầm hố mà những người công nhân phá hủy ngôi nhà đã tạo ra trong khi bốc những lớp trang trí mới thực hiện vài chục năm gần đây. Chúng tự tạo một con đường qua những đống rác rưởi và thường chúng phải xé bỏ những tấm mạng nhện dày như những bức màn thực thụ.