Tôi lại nói chuyện chú Nhiên và cô Linh.
Chú Nhiên không giải thích được tại sao chú yêu cô Linh và sắp sửa lấy cô Linh làm vợ. Nhưng điều đó không ngăn cản chú gửi tin nhắn cho cô Linh mỗi ngày.
Chú gửi tin nhắn bằng chiếc điện thoại di động be bé, và một trong những lý do khiến tôi ngày nào cũng mong chú đến chơi là để được nghịch chiếc điện thoại của chú.
Nói cho công bằng, không chỉ tôi mong gặp chú mà chú cũng mong gặp tôi. Chỉ vì tôi hay hỏi chú về cô Linh.
Tôi hỏi mười câu, chú chỉ trả lời suôn sẻ được năm câu. Năm câu còn lại, chú không trả lời được, chú chỉ cười khà khà. Nhưng trông chú có vẻ thích thế.
Một lần, tôi đọc thấy chú nhắn cho cô Linh:
“Chiều nay chúng ta đi dạo một chút chăng? Buồn ơi là sầu!”
Tôi thấy tin nhắn đó hay hay (tại sao hay hay thì tôi cũng không rõ), liền vội vàng chạy qua nhà con Tí sún:
– Mày có điện thoại di động không?
Con Tí sún bảo “không”. Tôi chạy qua nhà con Tủn:
– Mày có điện thoại di động không?
– Mình không có nhưng mẹ mình có.
Tôi mừng rơn:
– Lát nữa mày mượn mẹ mày chiếc điện thoại đi. Ăn trưa xong, tao sẽ nhắn tin cho mày.
Con Tủn khoái lắm. Xưa nay chưa có ai nhắn tin cho nó bao giờ.
Hôm đó, trước khi làm cái chuyện chán ngắt là ngủ trưa, tôi kịp mượn điện thoại của chú Nhiên gửi mẩu tin đó vào điện thoại của con Tủn (đúng ra là của mẹ con Tủn).
Chiều, tôi học bài qua quít rồi lén ba mẹ vù ra cổng, đứng ngó qua nhà nó.
Tôi đứng vẩn vơ một hồi, thấy con Tủn trong nhà đi ra. Nó cũng ngó qua nhà tôi.
Hì hì, sau đó không nói thì ai cũng biết là tôi và con Tủn đã hớn hở đi dạo một chút với nhau. Chẳng đi đâu xa. Chỉ là loanh quanh sau hè nhà hàng xóm rồi ra đứng cạnh ao rau muống bên hông nhà thằng Hải cò nhìn châu chấu nhảy tới nhảy lui, chốc chốc lại lấy tay vỗ vào đùi bem bép vì bị muỗi chích. Nhưng như vậy cũng đã thích thú lắm. Y như người lớn. Một chuyện hẹn hò.
Mấy hôm sau, tôi lại nhắn cho con Tủn một tin nhắn mới. Cũng cóp từ mẩu tin chú Nhiên gửi cô Linh:
“Chiều nay chúng ta lai rai một chút chăng? Buồn ơi là sầu!”
Và chiều đó hai đứa tôi đã lai rai một chút ở quán bà Hai Đọt. Tôi ăn cắp tiền của mẹ tôi để đãi con Tủn ăn chè đậu đỏ bánh lọt. Tôi mất tiền vì con Tủn nhưng tôi không tiếc. Đời thế mới vui.
Nhưng đời chỉ vui được có hai lần. Tới lần thứ ba thì tôi gặp nạn.
Mẩu tin mới nhất của chú Nhiên đã hại tôi. Tôi háo hức nhắn cho con Tủn:
“Chiều nay chúng ta lên giường một chút chăng? Buồn ơi là sầu!”
Dĩ nhiên một chú bé tám tuổi thì không thể hiểu nội dung thực sự của mẩu tin quái ác đó.
Chiều, tôi lại ra đứng trước cổng ngó mông qua nhà con Tủn thấp thỏm chờ đợi theo thói quen.
Một lát, trong nhà nó có người đi ra. Lần này không phải con Tủn, mà là mẹ nó. Bà đi xăm xăm sang nhà tôi.
Kết quả: chiều đó chỉ có mình tôi lên giường.
Tôi leo lên giường nằm sấp xuống cho ba tôi đét roi vào mông.
Chỉ vì cái tội mà thực ra tôi không hề mắc phải: Mới nứt mắt đã bày đặt lăng nhăng.
Buồn ơi là sầu!
KHI NGƯỜI TA LỚN
Bạn đọc thân mến của tôi, khi các bạn đọc tới dòng chữ này thì thú thật tôi vẫn còn nuôi trong lòng một bí mật. Chắc các bạn cũng thấy cuốn sách mà tôi đang viết và các bạn đang đọc không hề giống bất cứ cuốn sách nào tôi đã từng viết và các bạn đã từng đọc trước đây.
Tôi đã định giữ kín bí mật này, kể cả khi cuốn sách đã kết thúc và nhà xuất bản đã in ra. Nhưng vì các bạn đã kiên nhẫn đọc tới đây, đã nộp cho cuốn sách một khoảng thời gian như người ta nộp tiền cho Cục thuế thì tôi thấy các bạn không có lý do gì không được hưởng quyền được thông tin về tác phẩm mà các bạn đã bỏ tiền ra mua và bỏ thì giờ ra đọc.
Sẵn đây, tôi tiết lộ luôn: thực ra cái tôi đang viết không phải là một cuốn tiểu thuyết.
Thực tế đây là một bản tham luận mà tôi định sẽ trình bày trong cuộc hội thảo Trẻ em như một thế giới do Ủy ban UNESCO tại Việt Nam phối hợp với Bộ giáo dục tổ chức, với sự góp mặt của các nhà nghiên cứu giáo dục, các chuyên gia tư vấn tâm lý, các nhà báo phụ trách mảng học đường và giáo dục gia đình, cuối cùng là các nhà văn viết cho trẻ em.
Tất nhiên đây là bản tham luận sẽ không bao giờ được đọc trên diễn đàn, thậm chí không được gửi tới cuộc hội thảo theo đúng kế hoạch trước đó. Lý do tại sao thì tôi sẽ nói sau.
Mà thôi, tôi nói ngay đây.
Có nhiều lý do.
Mỗi lý do mang một hình hài cụ thể.
Lý do đầu tiên mang hình hài của thằng Hải cò.
Gọi thằng Hải cò là gọi theo thói quen, gọi theo cách tôi vẫn gọi nó vào cái thời chúng tôi tám tuổi.
Bây giờ, đúng ra tôi phải gọi Hải cò là ông Hải cò. Như vậy cho nó lịch sự. Vì Hải cò bây giờ đã nhiều tuổi lắm rồi, đại khái bằng cái mức 8 tuổi nhân cho 6, tức là khoảng trên dưới 50, nếu chúng ta vẫn quyết tin theo bản cửu chương.
Hải cò đột ngột đến thăm tôi vào một chiều mưa gió, nhưng cuộc gặp gỡ không được lãng mạn như trong nhạc Tô Vũ.
Hải cò kéo ghế thả người rơi đánh phịch, hỏi độp ngay:
– Nghe nói cậu đang viết một bài gì đó về tụi mình hồi còn bé phải không?
– Ủa, sao cậu biết? – Tôi dựng mắt lên.
– Cậu không cần biết tại sao tôi biết. Cậu chỉ cần trả lời là có chuyện đó không.
Giọng Hải cò rất giống giọng của một quan tòa, mặc dù tôi biết nó đang là giám đốc một công ty không liên quan gì đến pháp luật.
– Ờ, ờ… có. – Tôi dè dặt đáp.
– Có thật à?
Hải cò chồm người tới trước và reo lên, cứ như thể nó vừa bắt quả tang tôi đang làm chuyện gì phạm pháp.
Tôi liếm môi:
– Đó chỉ là một bản tham luận…
Hải cò cắt ngang:
– Nó là bản tham luận hay không phải bản tham luận, điều đó không quan trọng. Tôi chỉ quan tâm cậu viết cái quái gì trong đó…
Hải cò rặt một giọng gây hấn. Tôi nhìn chăm chăm vào mặt nó, cảm giác nó đã biết tôi viết những gì về nó.
– Thì những chuyện vụn vặt của tụi mình hồi nhỏ…
Tôi lấy giọng êm ái, cố nhấn mạnh từ “vụn vặt” để trấn an thằng bạn cũ.
Bằng ánh mắt cảnh giác, Hải cò nhìn tôi một lúc, rồi nó đột ngột chìa tay ra:
– Cậu đưa tôi xem thử nào.
Thoạt đầu tôi đã định từ chối nhưng rồi nhận thấy làm thế càng khiến Hải cò nghi ngờ và cuối cùng tôi cũng không thoát được nó, bèn rút ngăn kéo lấy xấp bản thảo thảy lên bàn:
– Cậu đọc đi! Chẳng có gì nghiêm trọng cả.
Tôi tặc lưỡi nói thêm, cố tình xoáy vào khía cạnh tình cảm:
– Chỉ là những kỷ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ.
Hải cò không bị những mỹ từ của tôi đánh lừa. Nó thận trọng lật từng trang bản thảo và nhìn cái cách nó săm soi từng con chữ, tôi có cảm giác không phải nó đọc mà nó đang sục sạo dò tìm.
Thỉnh thoảng nó lại giật nảy trên chỗ ngồi:
– Chà chà, đánh lộn đánh lạo! Không ổn rồi!
– Úi chà! Không thể như thế được! Giám đốc một công ty lớn không thể dạy con theo kiểu bá láp như thế này được.
Tôi lo lắng:
– Kiểu gì?
Hải cò đập tay lên bàn đánh chát:
– “Mày giữ gìn tập vở sạch sẽ như thế này mày không sợ thầy cô bảo ba mẹ mày không biết dạy con hả thằng kia?”. Hừ, một giám đốc thì không đời nào quát con như thế! Đây nữa! – Hải cò gí mạnh ngón tay vô trang giấy như đang cố đè bẹp một con ruồi – “Đến giờ cơm là ngồi vô ăn, chỉ có kẻ không được giáo dục đến nơi đến chốn mới làm như vậy!”…
Nó giơ hai tay lên trời:
– Ối trời ơi! Cậu muốn giết tôi hả, Mùi?
Hải cò bỏ chữ “cu” trước tên tôi nhưng hắn vẫn quát tôi như quát một thằng cu.
– Đây chỉ là chuyện hồi nhỏ. Hồi tụi mình mới tám tuổi. – Tôi phân trần bằng cả giọng nói lẫn vẻ mặt.
– Tám tuổi cũng thế. – Mặt Hải cò đỏ gay – Giám đốc một công ty lớn thì không thể ăn nói như thế hồi tám tuổi. Các đối tác sẽ nghĩ gì về tôi nếu biết hồi bé tôi là một đứa hư hỏng.
– Mình không nghĩ như vậy là hư hỏng.
– Đó là ý nghĩ của cậu…
– Nhưng mình có bịa đâu. Mình ghi lại những gì cậu đã nói hồi tám tuổi. Hồi đó…
– Hồi đó là hồi đó. Bây giờ là bây giờ. Tám tuổi thì con người ta làm bao nhiêu là chuyện ngốc nghếch. Bây giờ cậu lôi ra bêu riếu để làm gì.
Tôi không thể nào tiêu hóa nổi lập luận của Hải cò. Nhưng tôi biết tôi không thuyết phục nó được. Thằng Hải cò hồn nhiên phóng khoáng bao nhiêu thì ông giám đốc Hải cò tính toán và cố chấp bấy nhiêu.
Thằng Hải cò sẵn sàng làm những gì nó muốn, trong khi ông Hải cò chỉ muốn làm những gì người khác muốn. Có lẽ đó lại là một điểm khác biệt nữa giữa trẻ con và người lớn. Điều đó cho thấy nếu cần tẻ nhạt thì đời sống người lớn còn tẻ nhạt gấp trăm lần so với trẻ con.
Cuối cùng, tôi thở dài:
– Thế cậu muốn sao?
– Cậu phải gạch bỏ hết những chi tiết dở hơi đó. – Hải cò đáp giọng dứt khoát.
– Không được! Thế thì còn gì bản tham luận của mình.
– Đó là chuyện của cậu. – Hải cò lạnh lùng, có vẻ quyết dồn tôi vào chân tường.
Tôi uống một hớp nước để dằn cơn giận.
– Thế này vậy. – Tôi đặt vội chiếc ly xuống bàn để không phải xáng nó vào tường – Mình sẽ không gạch bỏ hay tẩy xóa gì hết. Nhưng mình sẽ đổi tên nhân vật.
oOo
Con Tủn đến, ngồi đúng vào chiếc ghế Hải cò ngồi hôm qua.
Tôi khỏi cần giải thích, các bạn cũng đã biết lý do thứ hai mang hình hài con Tủn.
Con Tủn ngồi đúng vào chiếc ghế Hải cò đã ngồi và hỏi đúng cái câu Hải cò đã hỏi:
– Nghe nói anh đang viết một bài gì đó về tụi mình hồi còn bé phải không?
Chỉ có phản ứng của tôi là khác. Tôi gật đầu như máy:
– Đúng vậy. Và anh biết là không nên lôi chuyện ngốc nghếch hồi bé ra bêu riếu. Hiệu trưởng một ngôi trường lớn như em không thể nhận một tin nhắn kiểu như “Chiều nay chúng ta lên giường một chút chăng?” hồi tám tuổi. Học sinh và phụ huynh học sinh sẽ nghĩ sao về em, đúng không?
Con Tủn cũng gật đầu như máy, giống hệt tôi:
– Đúng, đúng!
Tôi tiếp tục phục thiện:
– Vì vậy mà anh quyết định sẽ đổi tên nhân vật. Cái cô bé nhận mẩu tin quá sức hư hỏng đó không phải là cô Tủn mà sẽ là cô Hồng Hạnh hay cô Anh Đào nào đó.
Cuộc gặp gỡ giữa tôi và con Tủn hôm đó ngọt ngào như ướp đường.
Nó không đòi đọc bản thảo. Cũng không giở giọng quan tòa. Mà có là quan tòa thật thì chắc nó cũng hết sức dịu dàng hoan hỉ khi chưa hỏi câu nào bị cáo đã khai nhận tuốt tuồn tuột và thành khẩn hứa hẹn sẽ sửa chữa mọi lỗi lầm.
TÔI LÀ THẰNG CU MÙI
Con Tủn hồi bé khác xa con Tủn bây giờ. Nghĩa là đáng yêu hơn nhiều, cho dù nó không hề yêu tôi.
Sau vụ tin nhắn, tôi ngoắt nó ra ngoài hè, chửi té tát:
– Mày đưa cho mẹ mày đọc mẩu tin đó chi vậy?
– Tại mình không hiểu bạn muốn rủ mình làm gì.
– Bây giờ mày hiểu chưa?
– Chưa hiểu.
– Chưa hiểu thì đừng bao giờ hiểu.
Tôi nói vậy vì tôi đã hiểu rồi. Chính chú Nhiên đã giải thích cho tôi. Chú vừa giải thích vừa cười khà khà trong khi mặt tôi méo đi từng phút một.
Kể từ hôm tôi lỡ lầm một chút đó, đời tôi mất đi bao nhiêu thứ một chút khác. Ba tôi cấm tôi không được nghịch chiếc điện thoại của chú Nhiên nữa.
Không được gửi tin nhắn rủ con Tủn đi dạo một chút, lai rai một chút, đời tôi trở nên buồn quá nhiều chút.
Ngày tháng trở lại là những ngày tháng cũ. Lẽo đẽo trong hành lang hiu quạnh của cuộc sống, tôi lại đi từ trường về nhà, từ phòng ngủ đến phòng tắm, từ bàn ăn đến bàn học với một nhịp điệu không đổi, y như trái đất vẫn buồn tẻ quay quanh mặt trời.
Nếu tôi là trái đất, đôi khi tôi lẩn thẩn nghĩ, tôi sẽ không cam chịu sống một cuộc sống máy móc và đơn điệu như thế. Tôi sẽ không thèm quay nữa, hoặc là tôi sẽ tìm cách quay theo hướng khác. Mặc cho mọi thứ ra sao thì ra.
Nhưng tôi không phải là trái đất. Tôi là thằng cu Mùi.
Thằng cu Mùi không lái được trái đất theo ý mình nhưng nó có thể bắt cuộc sống của nó đi theo cái cách mà nó chợt nghĩ ra.
Khi khát nước, tôi không thèm rót nước vô ly nữa. Tôi rót nước vô chai xá xị. Những chai xá xị uống xong, mẹ tôi chất hàng đống trên đầu tủ, chờ bán cho các gánh ve chai. Tôi uống nước trong chai, thấy thú vị làm sao.
Hải cò qua nhà tôi chơi, thấy vậy ba chân bốn cẳng chạy về nhà nằng nặc đòi mẹ nó mua xá xị cho nó.
Xưa nay nhà Hải cò không bao giờ uống các loại nước ngọt đóng chai. Mẹ nó bảo các loại nước ngọt toàn chất hóa học, có họa là điên mới nốc ba thứ độc hại đó vào người.
Nhưng thằng Hải cò bù lu bù loa ghê quá, bà đành ra chợ tha về cho nó một chai.
Hôm sau, Hải cò cầm chai nước chạy qua nhà tôi, mặt hiu hiu tự đắc:
– Mày xem! Hôm qua đến giờ tao uống nước bằng cái chai này nè.
Tôi tủm tỉm:
– Mày thấy thế nào?
– Ờ, nước trong chai ngọt và mát hơn nước trong ly mày ạ. Lạ ghê!
Tôi còn bày cho Hải cò nhiều chuyện lạ khác nữa. Hết uống, tôi chuyển sang ăn. Tôi không thèm bới cơm vô chén như trước nay. Tới bữa ăn, trước ánh mắt sửng sốt của ba mẹ tôi, tôi đổ cơm và thức ăn vào chiếc thau nhôm, trộn lên như một món thập cẩm. Rồi bưng cái thau ra ngoài hè, tôi ngồi xổm nhìn ra đường vừa lấy muỗng xúc cơm tọng vô miệng, cảm thấy cuộc sống vô cùng tươi đẹp.
Trông tôi ăn cơm trong thau rất giống con heo nhà tôi ăn cơm trong máng, nhưng Hải cò vẫn tấm tắc:
– Hay quá! Kiểu mới à?
– Ừ, kiểu mới! Thích lắm!
Hôm sau, Hải cò lại háo hức đi tìm tôi, chỉ để khoe:
– Tao vừa ăn cơm trong thau.
Lần này không đợi tôi dò hỏi, Hải cò hớn hở nói luôn:
– Ăn cơm trong thau ngon tuyệt mày ạ. Ngon hơn ăn bằng chén nhiều. Lạ ghê hén mày?
Hải cò lại “lạ ghê”.
Tôi cũng thấy lạ, mặc dù tôi lường trước được điều đó.
Bây giờ, tức là lúc ngồi viết lại câu chuyện này, dĩ nhiên tôi thừa biết hồi đó chính yếu tố tâm lý đã tác động đến khẩu vị của bọn tôi. Sự thay đổi của hoàn cảnh đã dẫn đến sự thay đổi của cảm xúc.
Tại sao những lời tỏ tình thốt ra ở cạnh bờ sông hay ngoài đồng cỏ dễ thành công hơn khi cũng những lời đó thốt ra giữa quảng trường hay nơi chợ búa?
Tại sao những đôi vợ chồng thích đi du lịch đến những nơi xa lạ để tìm lại cảm giác của những ngày đầu, điều mà họ không thể tìm thấy khi quanh quẩn trong căn nhà quen thuộc?
Tất cả đều có lý do của nó. Con người ta bao giờ cũng cần đến một hoàn cảnh mới để trước tiên làm mới lại chính cảm xúc của mình, rồi sau đó nếu tiện thì tiếp tục làm mới những thứ khác.
Do vậy, người lớn khi có điều kiện họ lập tức thay đổi hoàn cảnh, đôi khi bằng cách hết sức cực đoan như thay một người vợ này (hay một người chồng này) bằng một người vợ khác (hay một người chồng khác).
Tóm lại, người lớn thường cho phép mình làm tất cả những gì mình thích, kể cả những ý thích rất là vớ vẩn và cấm trẻ con làm tất cả những gì họ không thích, và sự cấm cản của họ nhiều khi cũng vớ vẩn nốt.
Tôi và Hải cò thay đổi thói quen ăn uống thì đâu có ảnh hưởng gì đến hòa bình thế giới. Không phải vì bọn tôi không thích uống nước trong ly mà hết ông tổng thống này đến bà thủ tướng nọ bị ám sát. Cũng như thế, người Israel và người Palestine nã pháo vào nhau chắc chắn không bắt nguồn từ việc bọn tôi thay chén bằng thau.
Nhưng dưới mắt các ông bố bà mẹ, việc một đứa con bỗng nhiên thích ăn uống theo kiểu trái khoáy là cái gì đó hết sức nghiêm trọng, có thể không liên quan đến chiến tranh nhưng rất có khả năng dính dáng đến sự điên rồ.
– Con có điên không hả con? – Mẹ tôi hỏi, cái cách bà nhìn tôi như thể tôi vừa khoác vào bộ đồ trắng toát của bệnh viện.
Tôi hiểu mẹ tôi, khi nhìn vẻ lo âu ánh lên trong đáy mắt bà. Nhưng tôi cũng rất buồn là bà không hiểu tôi như tôi đang hiểu bà.
– Không đâu, mẹ à. – Tôi ủ rũ đáp.
– Tại sao con lại làm thế? Tất cả mọi người đều uống nước trong ly, sao con lại thích uống nước trong chai?
Chính vì tất cả mọi người đều uống nước trong ly nên tôi mới thích uống nước trong chai. Lý do hết sức đơn giản nhưng tôi chỉ dám nghĩ trong đầu. Tôi không thể nói điều đó ra miệng, e rằng sẽ làm cho mẹ tôi thêm hoảng.
Nếu như bây giờ mẹ tôi còn đủ minh mẫn để nhớ lại câu chuyện hồi đó và lặp lại câu hỏi trên kia, tôi sẽ sẵn sàng giải thích cho bà hiểu rằng bọn trẻ con trên thế giới vẫn thích làm như vậy và tất cả những đứa đó chẳng có đứa nào bị điên hết.
Ba tôi hừ mũi:
– Ly dùng để uống nước, chai dùng để chứa nước, chén là để ăn cơm, thau là để đựng rau, đựng thịt cá, mày có biết không hả thằng kia?
Thằng kia tức là thằng cu Mùi. Khi ba tôi chuyển sang gọi tôi là thằng kia, tức là ông đã giận lắm.
– Dạ biết.
– Biết sao mày còn trở chứng như vậy?
Tôi không thể giải thích cho ba tôi, cũng như trước đó tôi đã không thể giải thích cho mẹ tôi.
Sau này, khi đã là một ông bố hẳn hoi thì tôi phát hiện ra trẻ con trở chứng là thứ đầy rẫy trên trái đất này.
Rất nhiều đứa trẻ không đi đứng bình thường như thiên hạ mà cứ thích nhảy chân sáo ngoài đường. Thậm chí nhiều đứa thích đi bằng mũi chân trên gờ tường cheo leo hơn là sải bước vững vàng trên mặt đất.
Nhiều đứa trẻ khác đội nón cứ thích quay ngược lưỡi trai ra đằng sau.
Nhiều đứa trẻ khác nữa thích dùng bút để đọ gươm và xé giấy tập để xếp tàu thuyền hơn là dùng thứ này để viết lên thứ kia.
Nếu có thời gian tìm hiểu hẳn tôi sẽ tìm thấy những chú bé thích rót nước vô chai và xới cơm vô thau. Chắc chắn thế.
Thật là sáng tạo, những đứa trẻ đó. Chúng làm vậy chẳng qua chỉ để cho đời bớt nhạt. Lý do mới lành mạnh làm sao!
Nhưng người lớn lại coi là ngổ ngáo, ngược đời và không giống ai những điều mà bọn trẻ chỉ đơn giản coi là thú vị.
Người lớn sẽ nói, hết sức nghiêm khắc:
– Này con, khi nào phải rượt đuổi ai hoặc bị ai rượt đuổi, con người mới phải chạy, khi nào cần vượt qua một chướng ngại vật như vũng nước hay mô đất, con người mới phải nhảy. Còn lúc khác, những người đứng đắn đều đi đứng khoan thai. Chẳng đứa trẻ ngoan nào lại nhảy như cóc hoặc đi trên gờ tường như khỉ thế kia!
Người lớn tiếp tục bảo ban:
– Người ta tạo ra cái lưỡi trai là để che nắng cho gương mặt, chỉ có những kẻ ngốc nghếch mới quay ngược cái nón lại như thế!
Tới lần thứ ba thì người lớn răn đe:
– Tao sắm tập bút cho mày đánh nhau và xé làm đồ chơi hả thằng kia?
Tất cả những gì người lớn dạy dỗ đều đúng về mặt lý thuyết, bọn trẻ đều thấy vậy. Nhưng bọn chúng vẫn có một sự thôi thúc vô hình làm cho khác đi trong thực tế.
Chẳng qua so với người lớn, trẻ con sống trong một bầu khí quyển khác và dưới một thứ ánh sáng khác. Ở đó, bọn trẻ tiếp cận thế giới theo cách của chúng, nghĩa là chúng không nhìn mọi thứ chung quanh dưới khía cạnh sử dụng. Đó là điểm khác biệt căn bản giữa trẻ con và người lớn.
Với người lớn, ý nghĩa và giá trị của mọi thứ trên đời đều thu gọn vào hai chữ chức năng. Bạn lật bất cứ một cuốn từ điển nào của người lớn mà coi. Người ta định nghĩa thế giới này bằng chức năng, và chỉ bằng chức năng. Áo để mặc, ghế để ngồi, răng để nhai và lưỡi để nếm.
Cho nên không thể trách được nếu ba tôi quả quyết ly mới là thứ dùng để uống nước, còn chai chỉ dùng để đựng nước, nếu mọi ông bố bà mẹ khác đều nhanh chóng đồng ý với nhau rằng nón lưỡi trai dùng để che nắng, bút để viết và tập vở tất nhiên dùng để ghi chép.
Trẻ con không quan tâm đến chức năng. Đơn giản vì trẻ con có kho báu vô giá: óc tưởng tượng.
Chiếc gối với người lớn là thứ để gối đầu nhưng với con Tí sún nghèo rớt mùng tơi thì đó là con búp bê hay khóc nhè mà nó phải ru mỗi ngày.
Với tôi và Hải cò, áo không chỉ dùng để mặc mà còn là thứ để nắm lấy khi tụi tôi cần trì níu để vật nhau xuống đất. Nếu áo mà chỉ dùng để mặc thì chán chết. Mà thực ra nếu trời không quá lạnh thì trẻ con cũng chẳng cần mặc áo.
Với mẹ thằng Hải cò, hiển nhiên cây chổi dùng để quét nhà. Nhưng nếu thấy Hải cò đứng tần ngần trước cây chổi, tôi đoán là nó đang nghĩ xem nên làm gì với cây chổi, nên ném vào cửa kiếng nhà hàng xóm để xem điều gì sẽ xảy ra sau đó hay nên cưỡi lên cây chổi rồi đọc thần chú để biết mình có bay được như các phù thủy trong truyện hay không. (Chuyện thần tiên là do người lớn viết ra, nhưng thường thì họ quên khuấy đi rằng họ viết ra chuyện thần tiên để trẻ con sống trong thế giới đó cho đến chừng nào trẻ con cũng trở thành người lớn như họ).
Những ngày ngồi cặm cụi gõ những con chữ này tôi còn nghiệm ra rằng những đứa trẻ thích trở chứng là những đứa trẻ muốn thể hiện cái tôi, tất nhiên thể hiện theo kiểu trẻ con. Quay ngược cái nón lưỡi trai ra phía sau, đứa trẻ muốn khẳng định rằng ta khác với phần còn lại của thế giới, thực ra cũng khó mà khác được vì trên thế giới bao la này có rất nhiều đứa trẻ đội nón kiểu oái oăm như vậy, nhưng ít ra cũng khác với thằng bạn đi bên cạnh.
Tất nhiên không phải đứa trẻ nào cũng thế. Cũng có những đứa trẻ thích giống nhau, bên cạnh những đứa trẻ thích khác nhau.
Người lớn dĩ nhiên vỗ tay hoan nghênh đám trẻ thứ nhất. Vì giống lẫn nhau, đó là thứ nguyên tắc mà người lớn sùng bái. Giống nhau tức là không cá biệt, không phá phách, không nổi loạn. Là nề nếp, quan trọng hơn nữa là an toàn. Nếu thật giống đám đông, giống đến mức lẫn lộn giữa người này với người khác, thậm chí tư tưởng ai nấy đều trùng khít với nhau thì càng tuyệt đối an toàn.
Nghĩ khác, nói khác và làm khác đám đông, dù là nghĩ đúng, nói đúng và làm đúng vẫn là sự lựa chọn tiềm ẩn nhiều nguy cơ, trong nhiều trường hợp đó là con đường dẫn đến giàn thiêu mà Bruno là một ví dụ bi thương trong lịch sử nhân loại. (Khi mọi người đều tin rằng mặt trời quay quanh trái đất thì kẻ khăng khăng cho rằng trái đất quay quanh mặt trời chỉ có cách duy nhất là dùng cái chết để bảo vệ cho chân lý – điều đó là không thể khác).
Rất may là chúng tôi – tôi, Hải cò, con Tủn và con Tí sún – không ai trở thành Bruno vào năm tám tuổi. Chúng tôi chỉ làm ba mẹ phiền lòng chứ không đụng chạm đến những trật tự và những quyền lực bất khả xâm phạm.
Tôi và Hải cò không lên giàn thiêu.
Nhưng hai đứa tôi buộc phải thừa nhận rằng cái ly và cái chai (cũng như cái chén và cái thau) hoàn toàn khác nhau về công dụng và để bảo đảm cuộc sống vẫn diễn ra đúng theo khuôn phép và nhất là đúng ý ba mẹ, chúng tôi đành phải đồng ý rằng chức năng của những đứa trẻ ngoan là phải sử dụng đồ vật theo đúng chức năng mà người lớn đã quy định.
Sầu ơi là buồn!
TÔI NGOAN TRONG BAO LÂU
Thế người lớn muốn gì ở trẻ con?
Hay cụ thể hơn, ba mẹ tôi muốn gì ở tôi?
Tôi tự hỏi, sau những thất bại nặng nề trong nỗ lực chinh phục những đổi thay.
Tôi nghĩ, để làm hai lòng ngườ lớn đâu có gì khó. Điều quan trọng là tôi có muốn làm hay không.
Ba mẹ tôi muốn tôi ngày nào cũng thuộc bài trước tám giờ tối ư?
Ngay trưa hôm đó, tôi thức dậy lúc ba tôi còn ngáy khò khò và lập tức ngồi vào bàn học, không cần đợi mẹ tôi nhắc nhở hay thúc giục như mọi lần.
“Ở làng quê, người dân thường sống bằng nghề trồng trọt, chăn nuôi, chài lưới và các nghề thủ công, xung quanh nhà thường có vườn cây, chuồng trại, đường làng nhỏ, ít người và sẽ cộ qua lại. Ở đô thị, người dân thường đi làm trong các công sở, cửa hàng, nhà máy, nhà ở tập trung san sát, đường phố có nhiều người và xe cộ đi lại”.
Những đoạn văn như thế thực ra không có gì đặc biệt, thậm chí chỉ là sự lặp lại những điều tôi đã mắt thấy tai nghe.
Nhưng ngay cả những đoạn văn đơn giản nhất nếu cứ vào tai này lại ra tai kia nhanh như chớp thì nó vẫn không đọng lại trong đầu bạn được.
Tôi vốn dĩ là thằng bé không giỏi tập trung. Bao giờ ngồi học, tâm trí tôi cũng bị lãng đi bởi một chuyện gì đó, bất cứ là chuyện gì.
Tôi nhớ lúc tôi học bảng chữ cái. Thật là khốn khổ, khốn nạn!
Cô giáo dạy tôi:
– O tròn như quả trứng gà
Ô thì đội mũ, ơ là thêm râu.
Lúc nghe những câu vần vèo đó, tôi không tìm cách phân biệt các mẫu tự mà cứ liên tưởng đến cái mũ của chú Nhiên, một cái mũ nhọn màu xanh sẫm bằng vải nỉ dày có chóp nhọn. Loại mũ đó bây giờ không còn ai đội, cũng chẳng ai buồn sản xuất nữa nhưng hồi đó nó là một kỳ quan đối với bọn nhóc mũi thò lò như tôi.
Tôi rất thèm được đội lên đầu chiếc mũ của chú Nhiên, đội một tẹo thôi rồi trả lại cũng đã vô cùng sung sướng. Tất nhiên chú Nhiên thấy chuyện đó chẳng có gì nghiêm trọng: tôi đội chiếc nón bảo bối đó trước tia nhìn chằm chằm của chú, nếu muốn nghịch phá tôi cũng chẳng có cơ hội.
Rồi tôi nghĩ đến ông ngoại con Tí sún. Tôi nghĩ đến chòm râu của ông. Chòm râu của ông chẳng có chút gì giống giấu ơ. Nó dài và thẳng, và rậm rạp, mỗi khi ăn phở ông phải dành riêng một tay để vén râu cho khỏi ướt.
Tôi nghĩ ngợi lung tung, liên tưởng đủ thứ và khi cô giáo chỉ tay vào chữ ơ và hỏi tôi đây là chữ gì thì tôi cà lăm:
– Thưa cô đây là chữ… chữ…
Tôi biết cái chữ cô giáo hỏi là chữ ô hoặc chữ ơ, nhưng nó đích thực là ô hay ơ thì tôi không quả quyết được. Trong đầu tôi lởn vởn hình ảnh chú Nhiên và ông ngoại con Tí sún nhưng người nào là ô người nào là ơ thì tôi quên béng.
Thấy tôi lúng búng hàng buổi, cô giáo thương tình:
– O tròn như quả trứng gà
Ô thì đội mũ, còn chữ gì là có râu?
Tôi mừng quýnh:
– Thưa cô chữ ơ ạ.
Một nhà thông thái nào đó đã dùng từ mặt để chỉ con chữ. Mặt chữ – một cách nói tuyệt vời.
Chuyện đầu tiên của học trò vỡ lòng là làm quen với mặt chữ, sau đó phải nhớ mặt chữ. Giống như làm quen với người nào đó và nhớ mặt họ.
Hai mươi bốn chữ cái là hai mươi bốn gương mặt mà bất cứ đứa trẻ nào cũng buộc phải làm quen trước khi ý thức rằng đây là những gương mặt sẽ đi theo mình suốt đời.
Đó không phải là một đòi hỏi phức tạp nhưng với đầu óc vẩn vơ như tôi thì làm thế nào phân biệt được và gọi đúng tên từng người trong hai mươi bốn mặt người mới quen đó lại là một điều quá sức.
Bao giờ cũng vậy, tôi nhìn các con chữ một hồi thì con chữ không còn là con chữ nữa mà thay vào đó vô số hình ảnh không biết từ đâu hiện ra lấp đầy tâm trí tôi.
Nhiều năm về sau, tôi tình cờ đọc được bài thơ Những nguyên âm của Rimbaud mới biết ông cũng từng bị óc tưởng tượng của mình cầm tù:
A đen, E trắng, I đỏ, O xanh – những nguyên âm.
…
Rimbaud không chỉ nhìn ra màu sắc của các nguyên âm. Ông còn nhìn thấy ở chữ A chiếc yếm đen của bầy ruồi, chữ E là những đỉnh núi nhọn phủ đầy tuyết, và những cánh đồng cỏ rải rác gia súc đứng gặm cỏ bình yên trong chữ U.
Nhưng tuyệt nhất là ông còn nghe được âm thanh của các con chữ: tiếng kèn đồng với những nốt cao vút trong chữ O hay tiếng cười bật ra từ cơn phẫn nộ hay trong cơn say nơi chữ I…
Ngay vào lúc tôi chưa đọc nhiều Rimbaud, chỉ làm quen với mỗi bài thơ Những nguyên âm thôi, ông lập tức đã là thi sĩ lớn nhất và gần gũi nhất trong mắt tôi.
Tôi tin rằng khi viết bài thơ này, tâm tính ông chắc vẫn còn bồng bột trẻ con, hay nghĩ ngợi lung tung và vì cái tật này tôi đoán hồi bé ông cũng nghịch phá và bị nhiều điểm kém trong tập không thua gì tôi.
Ôi, tôi lại lạc đề mất rồi.
Thực ra tất cả những lời con cà con kê nãy giờ chỉ đơn giản muốn nói rằng hồi tám tuổi tôi đã la một đứa bé đầu óc luộm thuộm, luôn mất tập trung.
Và tôi đang muốn nói tiếp rằng đến một ngày, tôi quyết bắt cái đầu óc mất tập trung đó tập trung cao độ, chỉ để tự chứng minh một điều: muốn làm ba mẹ hài lòng là điều vô cùng đơn giản mà bất cứ đứa trẻ nào nếu muốn cũng đều làm được.
Tôi đã học bài như điên, tôi vùi đầu vào tập không cả ăn cả chơi, mặc kệ tiếng réo gọi tuyệt vọng của thằng Hải cò, con Tủn và con Tí sún không ngừng đập vào cửa sổ.
Tôi học như thể ngày mai tôi sẽ chết.
Tôi ngốn ngấu những con chữ như ngốn mì gói.
Tôi tụng bài đến rã họng và thuộc nhoay nhoáy.
Trước giờ cơm chiều, tôi không còn gì để mà học nữa. Hầu như tôi đã nuốt cả đống sách vở vào bụng.
Nghe tôi trả bài vanh vách, ba tôi dụi mắt năm sáu cái liền, nức nở khen, nếu không giỏi kềm chế có lẽ ông đã ôm chầm lấy tôi và nhấc bổng tôi lên:
– Thật không thể tưởng tượng được!
Ông nói giọng sụt sịt và hình như ông rơm rớm nước mắt.
Mẹ tôi sợ quá:
– Con có bị sao không hả con?
Bà sờ tay lên trán tôi, lo lắng:
– Chắc con phải đi bác sĩ thôi!
Trong những ngày đó, tôi đã làm cho ba tôi sung sướng đến ứa lệ suốt một tuần lễ liền, đến mức tới ngày thứ tư tôi đã thấy ông thường xuyên nhét một chiếc khăn tay trong túi áo.
Mẹ tôi cũng bình tĩnh dần. Bà đã biết tôi không bệnh tật gì, mặc dù bà vẫn tiếp tục sờ tay lên trán tôi mười hai lần mỗi ngày.
Ở lớp, tới lượt cô giáo bắt đầu xoa nắn vỏ não tôi. (Sao phụ nữ giống nhau đến thế!).
Cô lặng lẽ rờ rẫm xương sọ tôi (lúc đó tôi thấy cô giống thầy thuốc hơn là giống cô giáo) và cau mày hỏi:
– Thời gian gần đây em có bị té ngã gì không?
– Dạ có. – Tôi thật thà đáp, nhớ đến cuộc vật nhau với Hải cò cách đây mấy ngày.
– Có à. – Cô giáo giật nảy – Thế em có bị đập đầu xuống đất không?
– Dạ có.
Tôi lại đáp, thầm nhủ bụng nếu không đập đầu xuống đất thì còn lâu mới đáng gọi là bị té.
Sắc mặt cô giáo chuyển sang màu nõn chuối, cô ấn những ngón tay mạnh hơn như muốn đục vài cái lỗ trên đầu tôi theo kiểu người ta khoan thềm lục địa để thăm dò dầu khí:
– Chà, thế thì đúng rồi.
– Đúng gì hả cô?
– Nếu đập mạnh đầu xuống đất thế nào các dây thần kinh của em cũng bị va chạm. – Cô dùng ánh mắt mân mê khắp đầu cổ tôi – Thế em đập phía trước hay đập phía sau?
– Là sao hả cô?
– Ý cô muốn hỏi là em đập mặt xuống đất hay đập ót xuống đất?
Trông cô rất hồi hộp, và căn cứ cái cách cô nhìn chăm chú đôi môi tôi như thể đang rình một con gì đó sắp nhảy ra, tôi đoán đây là câu hỏi quyết định.
Tôi cố nhớ lại và ngần ngừ đáp:
– Hình như là em té sấp mặt xuống đất ạ.
Tôi nói đại thế thôi, chứ thực ra mỗi khi vật nhau với Hải cò, tôi té ngã cả chục lần: ba lần đập mặt, ba lần đập ót và những lần còn lại thì đập lung tung vào bất cứ chỗ nào có thể đập được.
Câu đáp bừa của tôi khiến cô giáo dãn ra. Cô thở phào và rụt tay lại:
– May quá! Thế thì không sao. Trung khu thần kinh con người ta nằm phía sau ót.
Không chỉ cô giáo, tụi bạn trong lớp cũng nhìn tôi bằng ánh mắt như thể nếu tôi không có tám cái tai thì ít nhất cũng có hai cái mũi.
Tôi chí thú sưu tập hết điểm 10 này đến điểm 10 khác và ngày ngày sung sướng bơi trong những tiếng trầm trồ của tụi bạn. Lần đầu tiên trong đời tôi cảm thấy học giỏi không phải là chuyện gì đáng chán, nhất là trong thời gian đó tôi luôn khoan khoái bắt gặp tiếng cười của con Dung điệu xen lẫn trong những tiếng xuýt xoa của tụi bạn.
Con Dung điệu thật ra chẳng xinh đẹp gì, chỉ được mỗi cái làm điệu, nhưng tiếng cười của nó luôn khiến tôi tò mò. Tiếng cười của nó nghe như tiéng nhạc, hễ nó cất lên là tôi nhận ra ngay. Tôi thích tiếng cười đó từ lâu và lần nào cũng vậy hễ con Dung điệu cất tiếng cười là tôi không kềm được một cú liếc xéo về phía nó.
Thực lòng mà nói, tôi thích con Tủn hơn con Dung điệu. Giọng cười con Tủn không hay bằng Dung điệu nhưng nó hơn con Dung điệu ở chỗ nó có lúm đồng tiền. Con gái mà có lúm đồng tiền trông duyên tệ.
Con Tủn chỉ có mỗi tật xấu là khoái chơi với thằng Hải cò. Gần đây, nhờ chiếc điện thoại di động của chú Nhiên, tôi rủ con Tủn đi chơi được hai lần. Nhưng từ ngày ba tôi cấm tôi nghịch điện thoại thì con Tủn lại tiếp tục cặp kè với Hải cò như trái đất tiếp tục quay quanh mặt trời khiến tôi chán đời khủng khiếp.
Tôi quyết định không thèm quan tâm đến con Tủn nữa. Tôi sẽ rủ con Dung điệu đi dạo một chút, lai rai một chút và cố nghĩ cách làm sao cho chuyện hẹn hò đó diễn ra trước mặt con Tủn.
Khi nổi sùng lên thì tôi nghĩ vậy, nhưng khi gặp con Dung điệu thì tôi không còn thấy háo hức với ý định đó nữa. Tôi vẫn chờ đợi để nghe tiếng cười của nó reo lên giòn giã bên tai, nhưng lại chẳng muốn rủ nó đi chơi, chả hiểu tại sao.
Tất nhiên, bây giờ thì tôi hiểu. Bây giờ, sau nhiều lần yêu, tôi nhận ra rằng không phải một cô Dung nào đó thay thế một cô Tủn nào đó trong trái tim một chàng cu Mùi nào đó sẽ làm hỏng định nghĩa về tình yêu mà vấn đề là khi một cuộc tình vừa đổ vỡ thì ngay sau đó người ta không thể nào hào hứng bắt đầu một cuộc tình mới nếu vết thương lòng chưa kịp lành miệng. Cũng như người ta không thể tiến hành tốt một cuộc chiến tranh trên đống đổ nát của cuộc chiến tranh trước đó nếu không có thời gian để hồi phục.
Hồi tám tuổi, tình yêu là một cái gì xa lạ với tôi. Nhưng dù không hẳn là yêu thì sự quyến luyến tự nhiên giữa một đứa con trai và một đứa con gái cũng tuân thủ theo những quy luật tình cảm y như quy luật mà đứa con trai đó và đứa con gái đó phải tuân thủ khi chúng lớn lên.
***
Chỉ vậy thôi mà tôi đâm chán.
Tôi không còn động lực.
Tôi tưởng sau khi gặp hái những tiếng cười của con Dung điệu, tôi sẽ sốt sắng rủ nó đi chơi để chọc tức con Tủn.
Nhưng trái tim tôi đã chống lại tôi.
Hơn nữa, những điểm 10 lúc bấy giờ đã không còn là một đỉnh cao để tôi chinh phục nữa. Tôi đã không còn thử thách.
Tôi chán học giỏi.
Tôi chán thuộc bài.
Nếu ngày nào tôi cũng thuộc bài vanh vách, cũng kiếm được những điểm 10 một cách dễ dàng thì cuộc đời tôi lại rơi vào mộtsự đơn điệu mới, cũng tẻ nhạt hệt như những ngày tôi tích cực sưu tầm những điểm 4, điểm 5.
Tôi bắt đầu lơ lf bài vở và một lần nữa lại làm ba tôi ứa lệ, lần này là vì thất vọng.
Mẹ tôi lại có dịp lo lắng
– Con có bị sao không hả con?
Còn cô giáo thì xoay đầu tôi một cách điên cuồng theo mọi hướng, giọng nghi hoặc:
– Chẳng nhẽ trung khu thần kinh của em lại nằm ở phía trước?
Chỉ có thằng Hải cò, con Tí sún và con Tủn là vui mừng với sự tuột dốc của tôi. Trong mắt tụi nó, cái cảnh tôi quyết rời bỏ đỉnh vinh quang để quay về với những ngày tăm tối chắc cũng khí khái không kém gì một bậc đại thần treo ấn từ quan, gạt bỏ vinh hoa phú quý để trở về với cuộc đời dân dã bụi bặm.
Trong trường hợp này, khái niệm người hùng của trẻ con không phải bao giờ cũng ăn khớp với cách nghĩ của người lớn. Thế đấy!
CHÚNG TÔI TRỞ THÀNH LŨ GIẾT NGƯỜI NHƯ THẾ NÀO
Như tôi đã nói, có rất nhiều lý do khiến bản tham luận mà các bạn đang đọc sẽ không bao giờ được trình bày trên diễn đàn, thậm chí không được gửi tới cuộc hội thảo theo đúng kế hoạch.
Lý do thứ nhất có tên Hải cò.
Lý di thứ hai có tên Tủn.
Lý do thứ ba hiển nhiên có tên là Tí sún.
Lý do thứ ba ghé đến thăm tôi vào một sáng chủ nhật đẹp trời. Đây mới là lý do quan trọng nhất khiến bản tham luận đáng lẽ đến nơi lý ra nó phải đến là cuộc hội thảo do UNESCO tổ chức thì cuối cùng nó lại rẽ ngoặt đến nhà xuất bản.
Con Tí sún, lạ lùng thay, đã bao nhiêu nước chảy dưới chân cầu, đã là mẹ của năm đứa con rồi mà khi gặp lại tôi, nó vẫn sún.
– Này em, sao em không chịu trồng răng đi.
– Em thích thế.
– Anh nghĩ chồng em thích thế thì đúng hơn.
– Đúng rồi. Em thích thế là vì chồng em thích thế.
Con Tí sún hồi tám tuổi là đứa hiền lành, chậm chạp, không giỏi khoa ăn nói. Bây giờ nghe cách đối đáp thông minh và thật thà của nó, tôi nghĩ nếu đi làm MC chắc chắn nõ sẽ là MC số một.
Ở đời, lắm kẻ thông minh, cũng lắm người thật thà. Nhưng người nhiều thông minh thường ít thật thà. Và người nhiều thật thà lại ít thông minh. Thông minh bao giờ cũng khéo ăn khéo nói khéo ứng xử, mà điều gì khéo quá thì thường kém chân thật, khổ thế!
Con Tí sún là trường hợp đặc biệt. Nó vừa thông minh vừa thật thà.
Nói cách khác nữa, nó thật thà một cách thông minh.
2 lần 2 là 4 là một kết luật quá sức thật thà. Nhưng khi sự thật thà tiếp cận chân lý thì nó đồng thời cũng là sự thông minh.
Con Tí sún nói thật lòng mình, nhưng không xấu hổ cũng không uốn éo: Em thích thế vì chồng em thích thế. Vì vậy đó là một câu nói thông minh: nó chạm đúng vào bản chất tình cảm của con người.
Có vẻ như tôi khen con Tí sún hơi nhiều.
Chắc vì nó vẫn còn sún răng, Nghĩa là trông nó không khác mấy con Tí sún tôi nhắc tới trong bản tham luận.
Nhưng hơn cả chuyện răng cỏ, tính tình con Tí sún sau bao nhiêu năm không gặp lại dường như vẫn không thay đổi.
Tôi hỏi nó:
– Có phải em đến đây vì bài viết của anh…
– Đúng rồi.
– Vậy chắc em đã biết là anh từ bỏ ý định lôi chuyện ngốc nghếch hồi bé ra bêu riếu. – Tôi nói như hôm trước nói với con Tủn, lưu loát và cay đắng – Anh quyết định thay đổi tên nhân vật…
– Chính vì vậy mà em đến đây. – con Tí sún cắt ngang lời tôi.
Tôi khoát tay:
– Em yên tâm đi, không có con Tí sún nào trong bài viết của a hết.
– Ý em không phải thế!
– Chứ ý em là thế nào? – Tôi mếu xệch miệng – Chẳng lẽ e muốn anh xé luôn bài viết này?
– À, không! – Con Tí sún kêu lên bằng giọng của một con mèo bị khép tội oan ( Vì thực tế tụi vừa chén sạch đĩa cá chiên của tôi là hai con mèo khác có tên là H và T. – Chú thích: H và T tức là Hải cò và Tủn).
Tôi để mặc cho cơn phẫn nộ dẫn dắt:
– Tức là xé vẫn không chắc ăn. Vẫn còn dấu tích. Em muốn anh đốt bản thảo này?
– Anh ơi! – Con Tí sún bắt đầu giọng rơm rớm nước mắt – Hổng lẽ anh nghĩ em tệ đến thế sao? Em đến đây là để khuyên anh không sửa, không xé không đốt gì hết. Anh đừng có nghe lời hai người kia. Chuyện tụi mình hồi bé như thế nào anh cứ viết như vậy.
Tôi nhìn sững con Tí sún, sực nhớ ra cách đây bốn mươi năm nó từng là vợ tôi, một cô vợ hiền lành ngoan ngoãn. Chẳng lẽ vì những đứa con của nó bây giờ không phải là con tôi mà tôi nỡ nghĩ xấu về nó?
Nếu như hồi tám tuổi tôi, tôi đã đưa tay lên cốc đầu mình mấy cái rồi.
– Anh xin lỗi…
Tôi nói sau, sau một hồi, và nhận ra mình không thể tìm thấy câu nói nào vô duyên hơn.
Con Tí sún quẹt nước mắt:
– Cách xin lỗi hay nhất là anh nghe lời em.
Đôi mắt đẫm lệ bao giờ cũng là đôi mắt đẹp, dù trước khi đẫm lệ nó có xấu xí cỡ nào.
Những giọt nước mắt của con Tí sún rơi xuống trái tim tôi.
Tôi xụi lơ như người chết rồi:
– Anh sẽ nghe lời em.
– Anh sẽ không đốt bản thảo?
– Anh sẽ không đốt.
– Anh sẽ không xé nó.
– Anh sẽ không xé.
– Anh vẫn giữ nguyên tên nhân vật?
– Anh vẫn giữ nguyên.
Tôi đáp và ngạc nhiên quá thể về cái sự dễ dãi của mình.
– oOo-
Hồi xưa đâu có vậy. Cách đây bốn mươi năm, con Tí sún có lẽ cũng từng nuôi hy vọng tôi sẽ nghe lời nó, dù chỉ môt lần.Nhưng hy vọng nhỏ nhoi đó, nó không bao giờ nuôi nổi.
Hy vọng trong lòng nó vừa lóe lên, đã bị tiếng quát của tôi làm cho tắt ngóm.
Ngày nào tôi cũng quát nó để sung sướng nhìn thấy nó rụt rè giương mắt ngó tôi và sau đó tuân lệnh tôi răm rắp.
Để cho đời bớt nhạt, một hôm tôi bảo nó:
– Tụi mình sẽ đi tìm kho báu.
– Kho báu ở đâu mà tìm?
– Tụi mình sẽ vượt biển khơi. Kho báu thường được chon giấu ngoài đảo hoang.
– Eo ôi, còn bé như tụi mình làm sao vượt biển khơi được?
– Mày nhát gan quá! – Tôi nheo mắt nhìn con Tí sún – Tao xem phim, thấy cả khối người đóng bè vượt biển.
– Nhưng họ là người lớn.
Tôi nhún vai:
– Người lớn hay con nít gì cũng thế thôi! Quan trọng là có gan hay không!
– Nhưng người lớn thì không cần xin phép ba mẹ.
Con Tí sún làm tôi chưng hửng. Lý lẽ của nó hết sức đơn giản nhưng hết sức quan trọng. Quan trọng hơn cả chuyện có gan hay không.( Chà cái phẩm chất thật thà một cách thông minh, nó đã bộc lộ từ bé!).
– Ờ há. – Tôi hạ giọng – Thế thì tụi mình sẽ không vượt biển nữa. Nhưng tụi mình có thể vào rừng sâu hay lên núi cao.
– Rừng sâu hay núi cao thì cũng thế. – Con Tí sún lại nói, tự nguyện tròng vào mặt vẻ biết lỗi vì lại tiếp tục ngăn cản tôi – Chắc chắn ba mẹ sẽ không cho tụi mình ra khỏi nhà lâu như vậy.
– Ờ. – Tôi thở dài, hờn dỗi – Ba mẹ không bao giờ tin tụi mình. Ba mẹ bao giờ cũng sợ tụi mình lạc.
Tôi tiếp tục ấm ức:
– Nếu tụi mình không đi lạc thì ba mẹ lại sợ mình bị rắn rết hùm beo tha đi mất.
Thấy tôi buồn, con Tí sún buồn theo. Nó lắc cánh tay tôi, nói như an ủi:
– Đợi lớn lên đi anh. Khi trở thành người lớn, tụi mình có thể đi bất cứ đâu mà không có ai cấm cản.
Nó lim dim mắt, xuýt xoa:
– Ôi, chỉ nghĩ tới thôi đã thấy thú vị rồi.
Một lần nữa, con Tí sún lại là người phát ngôn của chân lý. Nhưng ngay cả chân lý cũng có mặt thứ hai của nó. Sau này tôi dần dần khám phá ra rằng nếu khi còn bé tôi thường xuyên đau khổ vì không được làm những gì mình thích thì khi lớn lên tôi lại rơi vào những nỗi khổ đau khác vì có quá nhiều tự do để làm những điều mình thích, mà so với trẻ con thì những ý thích bốc đồng của người lớn thường là ngu ngốc và nguy hiểm hơn nhiều.
Người lớn tất nhiên cũng có những người lớn của mình. Nếu những nguyên tắc đạo đức là bà mẹ thì những nguyên tắc luật pháp là ông bố của người lớn: một bên đưa ra những khuyên giải nhẹ nhàng, một bên suốt ngày hầm hè và thốt ra những răn đe. Nhưng cũng giống như trẻ con, người lớn không phải lúc nào cũng biết vâng lời bố mẹ. Vì vậy mà tôn giáo xuất hiện. Tôn giáo xét về phương diện nào đó, cũng là đạo đức và pháp luật. Nó khuyên làm điều này, cấm điều kia. Nhưng vì tôn giáo xây dựng trên đức tin, nên con người ta làm theo mà không thắc mắc (theo kiểu con cái hay thắc mắc trước những mệnh lệnh của bố mẹ), bởi một thực tế là nếu không còn ai tin nữa thì con người cũng khó mà yên tâm về sự tồn tại của mình trên cõi đời.
Ôi, tôi lại nói lăng nhăng những gì thế này!
Tôi đang nói về tôi và con Tí sún, về kế hoạch truy tìm kho báu sắp sụp đổ thảm hại của chúng tôi.
Như vậy, chốt lại chúng tôi không ra đảo được, cũng không lên núi hay vô rừng được. Tám tuổi thì khốn khổ khốn nạn thế đấy: Cuộc đời nhìn đi đâu cũng thấy rào cản giăng giăng.
Tôi ngó con Tí sún, thấy nó giống hệt một sinh linh bé bỏng đang ngụp lặn giữa một trần gian bao la, và nghĩ lại phận mình, tôi buồn tủi thấy tôi cũng thế, nhỏ nhoi và bất lực.
Tôi nhìn mông lung, đầu óc trống rỗng như căn nhà kho sau cơn hỏa hoạn, chưa biết phải nhét thứ gì vào đó để có cái mà xê dịch. Ánh mắt tôi chợt bắt gặp những cây mận trong khu vườn nhỏ phía sau nhà thằng Hải cò.
– Tí sún nè. – Mắt tôi sáng lên – Tao nhớ ra rồi. người ta cũng hay chôn kho báu trong vườn cây.
– Vườn cây á? – con Tí sún ngơ ngác hỏi lại, không biết tôi định dẫn dắt cuộc phiêu lưu này đến đâu.
– Ờ, vườn cây. – Tôi gật đầu, và chỉ tay về phía nhà Hải cò – Mày nhìn đi! Có thấy vườn mận sau nhà thằng Hải cò không?
Con Tí sún nhìn khu vườn đằng xa rồi quay lại nhìn tôi, chờ đợi:
– Thấy.
– Trong khu vườn đó chắc chắn người ta có chon kho báu! – Tôi nói bằng giọng chắc nịch thậm chí vẻ mặt tôi còn quả quyết hơn cả giọng nói của tôi.
Con Tí sún bán tín bán nghi:
– Ai chôn hở anh?
– Một người nào đó. Có thể là ba mẹ Hải cò. Nhưng cũng có thể là người chủ cũ.
– Thế thì tụi mình đi đào lên đi!
Con Tí sún hào hứng giục, không hẳn nó tin có ai đó chôn kho báu dưới gốc mận mà vì để khỏi phải nghĩ đến chuyện trốn ba mẹ ra đảo hoang hay vô rừng thẳm, điều mà nó tin chắc một đứa điên điên như tôi sớm muộn gì cũng xúi nó làm.
– oOo-
Tham gia cuộc khai quật kho báu trong vườn nhà Hải cò có tất cả là bốn đứa.
Hải cò đương nhiên chiếm một suất, vì nó là chủ khu vườn. Con Tủn đương nhiên cũng chiếm một suất, vì thỉnh thoảng nó đóng vai vợ của Hải cò, tức là bà chủ của khu vườn.
Nhưng dĩ nhiên lý do quan trọng là bốn đứa tôi đều là bạn của nhau. Chúng tôi chia sẻ với nhau từ niềm vui nho nhỏ đến nỗi buồn lớn lao trong cuộc sống, từ lằn roi ba mẹ thường quất vô mông cho đến kho báu vô giá sắp tìm được.
Nhưng có một lý do quan trọng hơn hết thảy: nếu không hì hục xới tung khu vườn lên để tìm kho báu thì cuộc sống của chúng tôi sẽ buồn tẻ đến nhường nào. Ăn, ngủ và học, ba cái món chán ngắt đó hổng lẽ chúng tôi cứ phải chất lên cuộc đời mình và kéo lê chúng hết ngày này sang ngày khác như những con lừa thồ ngu ngốc.
Nếu không thể không thồ một thứ gì đó vào năm tám tuổi thì bọn tôi quyết định sẽ thồ kho báu.
Bốn đứa tôi đều thống nhất như thế và chọn một ngày nắng ráo chúng tôi bắt đầu đào xới khu vườn.
Công cuộc khai quật này được ba mẹ Hải cò ủng hộ hết sức nồng nhiệt. Họ nghĩ chúng tôi là những thợ làm vườn tự nguyện, nghĩa là những đứa trẻ ngoan.
Ba Hải cò xoa đầu tôi:
– Giỏi lắm, con trai.
Mẹ Hải cò rưng rưng khi nhìn con Tủn xách thùng tưới chạy tới chạy lui:
– Cẩn thận kẻo vấp té đó con.
Sau một tuần thì khu vườn không còn chỗ nào nguyên vẹn. Như những nhà khảo cổ, chúng tôi xới từng gốc cây, bụi cỏ, hết sức kỹ lưỡng. Nhưng kho báu vẫn chưa chịu hiện ra. Chúng tôi mỏi mòn chờ tiếng va của lưỡi cuốc vào nắp hòm gỗ, hoặc một vật gì cưng cứng như vàng hay kim cương nhưng hoài công. Thỉnh thoảng tay cuốc trên tay tôi và Hải cò cũng kêu đánh”cạch” một tiếng nhưng cái làm vang lên âm thanh hy vọng đó chỉ là những mảnh bát vỡ hay một thanh sắt han gỉ.
Sau mười ngày, đã xuất hiện trong vườn những hục hang và vài cái hố sâu hoắm.
Tới ngày thứ mười một, toàn bộ cây cối bắt đầu nói lời giã từ cuộc sống. Cành khô đi, lá rủ xuống và những trái mận quắt lại.
Buổi sáng ra thăm vườn, bàn tay ba thằng Hải cò không còn xoa đầu tôi nữa. Lông mày dựng ngược, tay chỉ ra cổng rào, ông quát lên bằng cái giọng người ta chỉ dùng để quát kẻ cắp:
– Cút!
Mẹ nó nhìn những cành mận tàn héo bằng vẻ mặt còn tàn héo hơn, trông bà vô cùng đau khổ và mất mát. Bà không quát tháo, mà rên lên:
– Ôi, lũ giết người!
Bọn tôi không định trở thành những kẻ sát nhân. Bọn tôi chỉ đi tìm kho báu nhưng có thể vì hăm hở tàn phá khu vườn mà bọn tôi khiến mẹ Hải cò lăn đùng ra chết cũng nên. Ý nghĩ u ám đó làm tôi run lên trong đầu.
Con Tủn và con Tí sún chắc cũng nghĩ như tôi nên trong nháy mắt ba đứa tôi đã biến như khói.
Chỉ có Hải cò là không chạy đi đâu được. Vì nó không biết chạy đi đâu.
Đối với một đứa bé, ngôi nhà rất quan trọng. Một đứa bé sống trong nhà mình cũng tự nhiên và máu thịt như sống trong bản thân mình. Nó không thể chạy khỏi nhà mình, vì điều đó sẽ làm nó đau đớn. Cũng như một con thỏ không thể chạy ra khỏi bộ da của mình.